Kỹ thuật canh tác đậu nành 

Được đăng : 13-12-2016 12:38:37
Đậu nành là cây ngắn ngày nên có thể bố trí vào các mô hình luân canh, xen vụ để tăng vòng quay của đất, đồng thời hạn chế nguồn sâu bệnh lưu tồn qua mùa vụ canh tác.Vụ đông xuân: Lượng ánh sáng đầy đủ, đậu nành trổ hoa sớm, thời gian sinh trưởng ngắn, thuận lợi cho việc thu hoạch và phơi hạt. Sâu bệnh ít phát triển.Vụ xuân hè: Nếu được chăm sóc và đầu tư kỹ thuật đúng mức, đậu nành sinh trưởng và phát triển tốt hơn vụ đông xuân, năng suất cao hơn. Nhưng vụ này sâu bệnh bộc phát mạnh, nhất là các đối tượng như dòi đục thân ở đầu vụ và sâu đục trái ở cuối vụ.Vụ hè thu: Thời gian chiếu sáng trong ngày dài nên đậu nành trổ hoa muộn, thời gian sinh trưởng kéo dài, mật độ trồng nên thưa hơn so với các vụ khác trong năm.Vụ thu đông: Mưa xuất hiện nhiều và liên tục, cần lưu ý chống úng cho cây.Chuẩn bị đấtCách trồng có làm đấtCày đất lúc có ẩm độ vừa phải. Tránh cày đất lúc còn quá ướt.Trường hợp đất quá khô, phải chủ động tưới nước và chờ đến khi đất có đủ độ ẩm thích hợp mới cày.Tránh làm đất quá tơi, khi gặp mưa, dễ bị đóng váng, cản trở việc hút nước, dinh dưỡng của cây, cây sinh trưởng yếu, các nốt sần ít và nhỏ.Ưu điểm: Diệt cỏ dại. Nâng cao độ tơi xốp của tầng đất mặt, tạo điều..

Đậu nành là cây ngắn ngày nên có thể bố trí vào các mô hình luân canh, xen vụ để tăng vòng quay của đất, đồng thời hạn chế nguồn sâu bệnh lưu tồn qua mùa vụ canh tác.
Vụ đông xuân: Lượng ánh sáng đầy đủ, đậu nành trổ hoa sớm, thời gian sinh trưởng ngắn, thuận lợi cho việc thu hoạch và phơi hạt. Sâu bệnh ít phát triển.
Vụ xuân hè: Nếu được chăm sóc và đầu tư kỹ thuật đúng mức, đậu nành sinh trưởng và phát triển tốt hơn vụ đông xuân, năng suất cao hơn. Nhưng vụ này sâu bệnh bộc phát mạnh, nhất là các đối tượng như dòi đục thân ở đầu vụ và sâu đục trái ở cuối vụ.
Vụ hè thu: Thời gian chiếu sáng trong ngày dài nên đậu nành trổ hoa muộn, thời gian sinh trưởng kéo dài, mật độ trồng nên thưa hơn so với các vụ khác trong năm.
Vụ thu đông: Mưa xuất hiện nhiều và liên tục, cần lưu ý chống úng cho cây.
Chuẩn bị đất
Cách trồng có làm đất
Cày đất lúc có ẩm độ vừa phải. Tránh cày đất lúc còn quá ướt.
Trường hợp đất quá khô, phải chủ động tưới nước và chờ đến khi đất có đủ độ ẩm thích hợp mới cày.
Tránh làm đất quá tơi, khi gặp mưa, dễ bị đóng váng, cản trở việc hút nước, dinh dưỡng của cây, cây sinh trưởng yếu, các nốt sần ít và nhỏ.
Ưu điểm: Diệt cỏ dại. Nâng cao độ tơi xốp của tầng đất mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống rễ phát triển. Hạn chế việc bốc phèn.
Nhược điểm: Tốn thời gian làm đất, do đó kéo dài thời vụ trồng, ảnh hưởng đến vụ sau. Tốn chi phí làm đất, tưới nước. Do đó việc làm đất chỉ nên áp dụng đối với những trường hợp đất quá khô, nhiều cỏ dại.
Cách trồng không làm đất
Trên chân đất ruộng, tiến hành gieo đậu nành sau khi thu hoạch lúa, khi đất còn độ ẩm thích hợp. Có thể kết hợp phủ rơm để giữ ẩm.
Trường hợp đất quá khô, có thể tưới tràn, sau đó tháo nước ra, ngày hôm sau tra hạt.
Ưu điểm: Tranh thủ thời vụ, vì không phải chờ đợi thời gian làm đất. Giảm được chi phí trong khâu làm đất. Tận dụng được độ ẩm trong đất sau khi thu hoạch lúa, do đó tiết giảm chi phí tưới nước.
Nhược điểm: Sâu bệnh phát triển nhiều hơn. Gặp trở ngại trong việc bón phân, nhất là các loại phân đòi hỏi phải trộn hoặc lấp xuống đất như phân lân, phân hữu cơ, vôi,....
Mật độ trồng
- Áp dụng tỉa, lượng giống 70 - 80kg/ha. Nếu sạ, 100 - 120kg/ha.
- Mật độ trồng: Tỉa theo khoảng cách 40 x 10cm hay 30 x 20cm, mỗi hốc 3 cây (50 cây/m2), sau đó chừa lại 2 cây/lỗ. Mùa mưa trồng dày hơn: 30 x 15cm; mỗi hốc 3 cây (66 cây/m2 ), sau đó chừa lại 2 cây/lỗ.
- Gieo độ sâu: 2,5cm.
Phương pháp gieo
Trước khi gieo, phơi lại hạt giống một nắng nhẹ trên nong, nia, cót, không được phơi trên nền xi măng, sân gạch. Gieo hạt khi đất đủ ẩm, trước khi gieo phải bón phân vào rãnh hoặc hốc, gieo hạt xong lấp một lớp đất tơi xốp dày 2-3cm.
Đối với đậu nành trên đất 2 vụ lúa: Trước khi gieo hạt, cho nước vào giúp đất đủ ẩm, sau đó rút sạch nước mặt, vạch thành hàng hay dùng que ấn thành hàng cách nhau 25-30cm để gieo hạt. Trên cùng một hàng gieo cách nhau 7-8 cm/hạt, hoặc theo khóm cách nhau 13-15cm, mỗi khóm 2-3 hạt, lấp hạt bằng đất trộn NPK hoặc phân chuồng hoai mục.
Bón phân
Đậu nành có khả năng cố định đạm từ khí trời nhờ vi khuẩn Rhizobium jabonicum nên không cần bón nhiều đạm. Chú ý bón thêm lân và kali để cân đối NPK. Nên bón đạm vào thời kỳ đầu của giai đoạn tăng trưởng để kích thích bộ lá phát triển trước khi vi khuẩn nốt sần ở rễ lấy được đạm từ khí quyển để nuôi cây.
Tùy theo từng loại đất, giống, mùa vụ mà có lượng phân bón cho thích hợp. Có thể áp dụng theo công thức sau:
Công thức 1: 60kg urê, 120kg DAP, 80kg kali (tính cho 1ha).
Bón lót: 60kg DAP và toàn bộ phân chuồng.
7 - 10 ngày sau khi gieo: bón 10kg urê, 60kg DAP.
25 - 30 ngày sau khi gieo: bón 30kg urê, 30kg kali.
35 - 40 ngày sau khi gieo: bón 20kg urê, 30kg kali.
Công thức 2: 105kg urê, 300kg super lân, 80 kg kali.
Bón lót: 300kg super lân.
7 - 10 ngày sau khi gieo: bón 25kg urê, 20kg kali.
25 - 30 ngày sau khi gieo: bón 40kg urê, 30kg kali.
35 - 40 ngày sau khi gieo: bón 40kg urê, 30kg kali.
Nếu có điều kiện, bón thêm 5-6 tấn phân chuồng/ha, bón vào giai đoạn trước khi tra hạt (bón lót).
Canh tác trên đất phèn, tùy vào độ chua của từng loại đất, có thể bón thêm 30-50kg vôi bột/công (1.000m2) vào giai đoạn bón lót.
Chăm sóc
Khi cây được 1-2 lá thật, tiến hành tỉa dặm để đảm bảo mật độ cây trồng trên ruộng. Kết hợp với các lần bón phân, làm cỏ và vun gốc đậu. Có thể làm cỏ bằng tay. Nếu sử dụng thuốc diệt cỏ như Dual, Ronstar, phải xử lý trước khi gieo đậu 1 - 2 ngày.
Đậu nành là cây trồng cạn nhưng kém chịu hạn. Nhu cầu nước của cây đậu nành lớn, nhất là vào thời kỳ ra hoa làm quả; khi gieo cần độ ẩm 50% mới mọc được. Nếu mưa lớn, cần thăm ruộng thường xuyên để tiêu úng.