Kỹ thuật nuôi tôm chân trắng Nam Mỹ 

Được đăng : 13-12-2016 13:53:20
Thả giống:Tiến hành chọn lựa giống vào buổi sáng hoặc buổi tối, tránh thả giống trong điều kiện thời tiết xấu. Mật độ thả giống khoảng 30.000 - 40.000 con/mẫu, kích cỡ tôm giống từ 0,5 đến 1 cm.Nuôi dưỡng:Mỗi ngày tiến hành cho ăn ba lần (sáng, chiều và tối), mới đầu chỉ cho ăn một ít lòng đỏ trứng hoặc các loại cá hương. Lòng đỏ trứng và cá hương có thể phân huỷ thành phân hữu cơ, vì thế, trước khi cho ăn, phải xử lý tiêu độc, lòng đỏ trứng đánh nhuyễn, thêm nước, vảy đều xuống ao. Lượng thức ăn được điều chỉnh theo mật độ tôm nuôi, trung bình 30 - 50 lòng đỏ/lần, số lượng này sẽ tăng theo sự tăng trưởng của tôm.Cho tôm ăn nhiều vào buổi sáng và buổi tối, ban ngày cho ăn ít. Rắc nhiều thức ăn ở bốn phía (sát với thành ao), ở giữa rắc ít hơn, nơi tôm tập trung đông rắc nhiều, nơi tôm tập trung ít rắc ít. Lượng thức ăn còn phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, nhiệt độ của nước, nhu cầu thực tế của tôm.Xác định lượng thức ăn phù hợp từng giai đoạn phát triển của tôm là rất cần thiết, vì khi tôm bị đói sẽ tăng trưởng chậm, thậm chí ăn thịt lẫn nhau, trái lại, khi thức ăn quá nhiều, tôm không ăn hết, gây nên sự ô nhiễm, tạo điều kiện cho vi khuẩn gây bệnh phát triển.Có một thiết bị chuyên dụng, dùng để kiểm tra tình hình sinh trưởng của tôm, xác định lượng thức ăn cung cấp cho tôm đủ, thiếu hay thừa, đó là lưới tơ. Nếu không có thiết bị này, người ta có thể kiểm tra bằng cách dựa vào lượng thức ăn có trong ruột tôm.Bổ sung thường xuyên các chất : vitamin C, vitamin E, bột côn bố, tỏi giã, thuốc kích thích tăng trưởng ... để tăng cường thể chất và sức đề kháng của tôm, từ đó, hạn chế được sự phát sinh dịch bệnh.Quản lý ao:Công tác quản lý được thực hiện liên tục trong suốt quá trình nuôi dưỡng. Ðể thu được hiệu quả nuôi trồng cao, phải thường xuyên tiến hành kiểm tra ao.1. Kiểm tra ao: Mỗi ngày hai lần, vào buổi sáng và buổi tối. Ban đêm, nên tiến hành kiểm tra thêm một lần nữa, bởi vì khi đó tôm có xu hướng bơi sát thành ao, đây là thời điểm thích hợp cho việc phát hiện những bất thường ở tôm, từ đó tìm ra những phương pháp xử lý kịp thời.Kiểm tra ao bao gồm: quan sát màu sắc của nước, đánh giá độ trong, xem xét tốc..

Thả giống:
Tiến hành chọn lựa giống vào buổi sáng hoặc buổi tối, tránh thả giống trong điều kiện thời tiết xấu. Mật độ thả giống khoảng 30.000 - 40.000 con/mẫu, kích cỡ tôm giống từ 0,5 đến 1 cm.
Nuôi dưỡng:
Mỗi ngày tiến hành cho ăn ba lần (sáng, chiều và tối), mới đầu chỉ cho ăn một ít lòng đỏ trứng hoặc các loại cá hương. Lòng đỏ trứng và cá hương có thể phân huỷ thành phân hữu cơ, vì thế, trước khi cho ăn, phải xử lý tiêu độc, lòng đỏ trứng đánh nhuyễn, thêm nước, vảy đều xuống ao. Lượng thức ăn được điều chỉnh theo mật độ tôm nuôi, trung bình 30 - 50 lòng đỏ/lần, số lượng này sẽ tăng theo sự tăng trưởng của tôm.
Cho tôm ăn nhiều vào buổi sáng và buổi tối, ban ngày cho ăn ít. Rắc nhiều thức ăn ở bốn phía (sát với thành ao), ở giữa rắc ít hơn, nơi tôm tập trung đông rắc nhiều, nơi tôm tập trung ít rắc ít. Lượng thức ăn còn phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, nhiệt độ của nước, nhu cầu thực tế của tôm.
Xác định lượng thức ăn phù hợp từng giai đoạn phát triển của tôm là rất cần thiết, vì khi tôm bị đói sẽ tăng trưởng chậm, thậm chí ăn thịt lẫn nhau, trái lại, khi thức ăn quá nhiều, tôm không ăn hết, gây nên sự ô nhiễm, tạo điều kiện cho vi khuẩn gây bệnh phát triển.
Có một thiết bị chuyên dụng, dùng để kiểm tra tình hình sinh trưởng của tôm, xác định lượng thức ăn cung cấp cho tôm đủ, thiếu hay thừa, đó là lưới tơ. Nếu không có thiết bị này, người ta có thể kiểm tra bằng cách dựa vào lượng thức ăn có trong ruột tôm.
Bổ sung thường xuyên các chất : vitamin C, vitamin E, bột côn bố, tỏi giã, thuốc kích thích tăng trưởng ... để tăng cường thể chất và sức đề kháng của tôm, từ đó, hạn chế được sự phát sinh dịch bệnh.
Quản lý ao:
Công tác quản lý được thực hiện liên tục trong suốt quá trình nuôi dưỡng. Ðể thu được hiệu quả nuôi trồng cao, phải thường xuyên tiến hành kiểm tra ao.
1. Kiểm tra ao: Mỗi ngày hai lần, vào buổi sáng và buổi tối. Ban đêm, nên tiến hành kiểm tra thêm một lần nữa, bởi vì khi đó tôm có xu hướng bơi sát thành ao, đây là thời điểm thích hợp cho việc phát hiện những bất thường ở tôm, từ đó tìm ra những phương pháp xử lý kịp thời.
Kiểm tra ao bao gồm: quan sát màu sắc của nước, đánh giá độ trong, xem xét tốc độ tăng trưởng của tôm ... để xác định lượng thức ăn phù hợp. Ðịnh kỳ kiểm tra nhiệt độ, kiểm tra lượng dưỡng khí hoà tan, lượng nitơ-amôniăc, lượng sun-phua-hiđrô, độ mặn, độ pH,
2. Duy trì chất nước ổn định: Trong quá trình nuôi tôm, chất nước tốt nhất có màu nâu trà, thứ đến là màu vàng lục, độ nhìn thấu khoảng 40 - 70 cm. Màu sắc của nước phản ánh trung thực chất lượng nước trong ao, phải chú ý điều tiết sắc nước bằng cách chủ động tăng/giảm nồng độ phân bón, định kỳ thả nấm tươi, bột đá đô-lô-mit, thuốc kích thích tảo sinh trưởng, bã chè ..., định kỳ dùng thuốc tiêu độc (ClO2) làm giảm bớt lượng chất ô nhiễm ở đáy ao, giúp đề phòng sự phát sinh bệnh tôm.
Khi thời tiết chuyển lạnh, phải tăng cường bơm nước vào ao để tránh rét cho tôm. Khi nước trong ao nuôi đạt được mọi yêu cầu kỹ thuật, tuyệt đối tránh thay nước, cố gắng duy trì tính ổn định và đảm bảo môi trường sinh thái cho tôm nuôi.
3. Các biện pháp xử lý chất nước
a. Ðịnh kỳ dùng vôi tôi:
Lượng cần dùng phụ thuộc vào chất nước và mức độ ô nhiễm ở đáy ao, thông thường sử dụng khoảng 30 - 50 kg/mẫu. Vôi tôi có tác dụng làm tan một số chất hữu cơ trong nước, khiến đáy ao bớt ô nhiễm, ngoài ra, khi sử dụng vôi tôi, lượng dưỡng khí trong ao tăng lên.
b. Ðịnh kỳ sử dụng nấm tươi:
Tốt nhất nên thực hiện ngay sau khi sử dụng vôi tôi, khiến nấm tươi phát triển tốt hơn, phân giải các chất ô nhiễm, ngăn cản sự sinh sôi của các vi khuẩn có hại, lượng trung bình là 2 - 4 kg/ mẫu x mét.
Lưu ý: 10 đến 15 ngày sau khi sử dụng nấm tươi mới được dùng thuốc tiêu độc.
c. Ðịnh kỳ dùng vôi sống:
Lượng sử dụng thông thường là 10 kg/mẫu x mét. Ngoài việc sử dụng định kỳ, có thể dùng cả những hôm trời mưa để điều tiết sắc nước và độ pH.
d. Ðịnh kỳ sử dụng thuốc tiêu độc:
Thuốc tiêu độc hàng đầu hiện nay là ClO2, vì thuốc ở dạng bột màu trắng, nổi trên mặt nước nên trước khi sử dụng, người ta phải kích hoạt thuốc. Bên cạnh ưu điểm điều tiết chất nước, giúp ngăn ngừa dịch bệnh, thuốc tiêu độc có một số nhược điểm là làm giảm thể lực của tôm, tiêu diệt những sinh vật phù du hữu ích, phá hỏng môi trường sinh thái của tôm nuôi. Vì vậy, phải tuyệt đối tuân theo sự chỉ dẫn về liều lượng.
Phòng trừ dịch bệnh:
Mặc dù đã làm tốt các công tác thả giống, nuôi dưỡng, kiểm tra ao nuôi hằng ngày, nhưng nhất thiết phải chú trọng công tác phòng trừ dịch bệnh, nhất là khoảng thời gian 30 - 60 ngày sau khi thả giống - là giai đoạn tôm nuôi rất dễ mắc bệnh
Trong quá trình nuôi, phải triệt để áp dụng các biện pháp dự phòng, như trộn thuốc vào thức ăn, sử dụng thuốc tiêu độc, tiến hành điều tiết môi trường sinh thái cho phù hợp với từng thời kỳ sinh trưởng của tôm.
Ðịnh kỳ tiến hành cho tôm ăn thức ăn đã tẩm thuốc hoặc chỉ tiến hành khi thấy những phát sinh bất lợi ở tôm, hay chất nước trong ao không tốt Ngoài tác dụng giúp ngăn ngừa dịch bệnh phát sinh, loại thức ăn đã tẩm thuốc này còn có thể tăng cường thể chất ở tôm. Nhưng không vì thế mà lạm dụng thuốc, đồng thời tránh dùng thường xuyên một loại thuốc.
Tỏi giã cũng là một dược liệu không thể thiếu trong nghề nuôi tôm vì nó có khả năng diệt khuẩn, trị bệnh đường ruột, kích thích tôm ăn.
Một khi dịch bệnh phát sinh, phải tăng cường thay nước để tiêu độc, sau đó, dùng vôi tôi để làm giảm lượng nitơ-amôniăc, dùng nấm tươi tạo nên môi trường sinh thái thích hợp, dưới đây là một số biện pháp cụ thể khi gặp phải tình trạng bất thường ở tôm:
1. Hiện tượng tôm nổi - Các nguyên nhân và biện pháp xử lý
a. Do thiếu Ô xy: Thường phát sinh vào ban đêm hoặc sáng sớm, cách giải quyết rất đơn giản: bật máy sục khí.
Trường hợp tôm nổi quá nhiều, phải kết hợp sử dụng thuốc tạo khí. Nếu tôm nổi vì thiếu ôxy thì ngay khi áp dụng mấy cách thức trên, tôm sẽ không nổi nữa.
b. Do thiếu thức ăn: Trong trường hợp này, tôm sẽ quây tụ thành đàn, có thể quan sát ruột tôm và tiến hành cho ăn kịp thời.
c. Do trúng độc: Tôm cũng di chuyển thành đàn trên mặt ao và tầng nước giữa. Chất ô nhiễm dưới đáy ao quá nhiều tạo nên khí nitơ-amôniăc và sun-phua-hiđrô, lúc này, ngoài việc mở máy sục khí để tăng lượng dưỡng khí hoà tan, còn phải tích cực thay nước, sử dụng vôi tôi và nấm tươi.
Ðiều đáng chú ý là phải ngừng cho tôm ăn, vì khi trúng độc, tôm thường có xu hướng bỏ ăn, nếu cứ tiếp tục cung cấp thức ăn sẽ tạo nên sự ô nhiễm mới. Chỉ khi tôm đã hồi phục hoàn toàn mới tiến hành cho ăn.
2. Bệnh nhiễm khuẩn ở tôm giống: Biểu hiện thường thấy là đứt râu, rụng chân, thối mắt, đen mang, rữa mang, gan sưng đỏ, tuy mức độ nguy hại không cao nhưng nếu xử lý không tốt có thể dẫn đến hiện tượng chết hàng loạt, đối với bệnh nhiễm khuẩn ở tôm giống có thể thực hiện các biện pháp tiêu độc, thay nước, trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn Kết quả rất khả quan.
3. Bệnh nhiễm cầu trùng: Thường phát sinh khi nhiệt độ môi trường tăng, nước mặn hơn khiến tôm bị rụng đầu, gan sưng tấy - có lúc màu đỏ, có lúc chuyển màu trắng, vỏ tôm mềm. Vì tính chất lây lan nhanh nên hay chuyển thành dịch bệnh.
Biện pháp xử lý: Tích cực thay nước trong nhiều ngày, mỗi ngày thay làm nhiều lần (chú ý: lượng nước thay của mỗi lần phải ít, tránh kích thích tôm lột vỏ là lúc tôm rất dễ nhiễm bệnh); Cách li những ao phát sinh bệnh; Cho tôm ăn thức ăn đã trộn axit flo-hiđric.
Tôm nhiễm bệnh cầu trùng rất dễ mắc thêm các bệnh khác, vì thế, phải phòng sự phát sinh của các "bệnh cơ hội".
4. Bệnh đỏ thân: Tôm mắc bệnh có thân đỏ như màu hoa hồng. Bệnh phát sinh khi nhiệt độ giảm thấp (trái với tác nhân gây bệnh nhiễm cầu trùng), diễn biến của bệnh thường chậm, hiếm khi tôm chết hàng loạt, biện pháp phòng ngừa là sử dụng tỏi giã. Khi tôm mắc bệnh, ta trộn phu-ran vào thức ăn.