Phòng trị bệnh đạo ôn hại lúa xuân 

Được đăng : 13-12-2016 12:29:37
1. Triệu chứng:Bệnh đạo ôn có thể phát sinh từ thời kỳ mạ đến lúa chín và có thể gây hại ở bẹ lá, lá, lóng thân, cổ bông, gié và hạt.- Vết bệnh trên lá lúa: Thông thường vết bệnh ban đầu là những chấm nhỏ màu xanh lục hoặc mờ vết dầu, sau chuyển màu xám nhạt. Trên các giống lúa mẫn cảm vết bệnh to, hình thoi dày màu nâu nhạt, có khi có quầng mầu vàng nhạt, phần giữa vết bệnh có màu nâu xám. Trên các giống chống bệnh, vết bệnh là những chấm rất nhỏ hình dạng không đặc trưng. Ở những giống có phản ứng trung gian, vết bệnh có hình tròn hay bầu dục nhỏ, xung quanh vết bệnh có viền màu nâu.- Vết bệnh ở trên cổ bông, cổ gié và hạt lúa: Các vị trí khác nhau của bông lúa đều có thể bị bệnh với triệu chứng các vết màu nâu xám hơi teo thắt lại. Vết bệnh trên cổ bông xuất hiện sớm thì bông lúa bị lép trắng hoàn toàn. Nếu bệnh xuất hiện muộn khi hạt đã vào chắc thì gây hiện tượng gãy cổ bông làm các hạt bị lửng, lép.Vết bệnh ở hạt không định hình, có màu nâu xám hoặc nâu đen. Nấm ký sinh ở vỏ trấu và có thể ở bên trong hạt. Hạt giống bị bệnh là nguồn bệnh truyền từ vụ này sang vụ khác.2. Qui luật phát sinh và phát..

1. Triệu chứng:
Bệnh đạo ôn có thể phát sinh từ thời kỳ mạ đến lúa chín và có thể gây hại ở bẹ lá, lá, lóng thân, cổ bông, gié và hạt.
- Vết bệnh trên lá lúa: Thông thường vết bệnh ban đầu là những chấm nhỏ màu xanh lục hoặc mờ vết dầu, sau chuyển màu xám nhạt. Trên các giống lúa mẫn cảm vết bệnh to, hình thoi dày màu nâu nhạt, có khi có quầng mầu vàng nhạt, phần giữa vết bệnh có màu nâu xám. Trên các giống chống bệnh, vết bệnh là những chấm rất nhỏ hình dạng không đặc trưng. Ở những giống có phản ứng trung gian, vết bệnh có hình tròn hay bầu dục nhỏ, xung quanh vết bệnh có viền màu nâu.
- Vết bệnh ở trên cổ bông, cổ gié và hạt lúa: Các vị trí khác nhau của bông lúa đều có thể bị bệnh với triệu chứng các vết màu nâu xám hơi teo thắt lại. Vết bệnh trên cổ bông xuất hiện sớm thì bông lúa bị lép trắng hoàn toàn. Nếu bệnh xuất hiện muộn khi hạt đã vào chắc thì gây hiện tượng gãy cổ bông làm các hạt bị lửng, lép.
Vết bệnh ở hạt không định hình, có màu nâu xám hoặc nâu đen. Nấm ký sinh ở vỏ trấu và có thể ở bên trong hạt. Hạt giống bị bệnh là nguồn bệnh truyền từ vụ này sang vụ khác.
2. Qui luật phát sinh và phát triển:
Nấm bệnh đạo ôn ưa nhiệt độ tương đối thấp, điều kiện nhiệt độ 20-28 độ C, ẩm độ không khí cao đến bão hòa (90-100%) và thời tiết âm u trong tháng 3- 4 vụ lúa xuân ở miền Bắc, miền Trung rất thích hợp cho bệnh phát sinh gây hại nặng.
Những chân ruộng hẩu, nhiều mùn, trũng ẩm, khó thoát nước; những vùng đất mới vỡ hoang, đất nhẹ giữ nước kém, khô hạn và những chân ruộng có lớp sét nông, nghèo dinh dưỡng, bón ít phân chuồng rất phù hợp cho nấm bệnh đạo ôn phát triển và gây hại.
Bón phân không cân đối, bón thừa đạm, ruộng lúa rậm rạp làm bệnh đạo ôn bị nặng hơn. Trong thực tế, nấm bệnh đạo ôn có nhiều nòi, chúng biến đổi không ngừng, có tính kháng thuốc cao, đến nay (2007) nhiều giống lúa trước kia chống được bệnh đạo ôn như: C70, C71, X20?, nhưng hiện nay cũng bị bệnh ở mức trung bình. Phần lớn các giống lúa cấy trong vụ chiêm xuân 2006-2007 ở các tỉnh phía Bắc nước ta trong mấy năm gần đây đều bị nhiễm bệnh đạo ôn.
3. Kỹ thuật phòng trừ:
- Biện pháp phòng bệnh: Dọn sạch tàn dư rơm rạ và cây cỏ dại mang bệnh ở trên đồng ruộng. Bón phân NPK cân đối, hợp lý đúng giai đoạn. Khi có bệnh xâm nhập phải ngừng bón đạm, ngừng bón kali, ngừng phun phân bón lá, giữ mực nước ngập 2-5cm trên ruộng và phun thuốc phòng trừ kịp thời. Tăng cường sử dụng các giống lúa mới lai tạo có gen kháng bệnh trong cơ cấu giống ở những vùng bệnh thường xảy ra ở mức độ nặng.
Xử lý hạt giống trước khi gieo bằng nước nóng 54 độ C trong 10 phút hoặc các loại thuốc trị đạo ôn như CuSO4 (sun phát đồng) 2-4%; Carbenzim 50WP; Triozon (Beam) 20WP,... trong 24giờ.
- Trị bệnh: Khi phát hiện ổ bệnh trên đồng ruộng cần phun trừ kịp thời bằng một trong các loại thuốc đặc hiệu trừ bệnh đạo ôn có uy tín cao, nhiều năm trên thị trường, nên dùng các loại thuốc nội hấp có tên thương phẩm như: Fujione 40EC; Triozon (Beam) 20WP; FILIA- 525EC,? Những loại thuốc này sau khi phun 4 giờ gặp mưa không cần phun lại, thuốc có hiệu lực kéo dài sau khi phun 12-15 ngày. Phun 1-2 lần, mỗi lần cách nhau 10-12 ngày. Hoặc thuốc đặc hiệu có tác dụng tiếp xúc như New Hynosan 30EC (có tác dụng 4-5 ngày sau khi phun nếu không gặp mưa to) phun 2-3 lần, mỗi lần cách nhau 5-7 ngày.
Đối với các tỉnh phía Bắc, trong vụ lúa chiêm xuân lúa trổ bông sớm trước 30/4, gặp rét muộn, thiếu ánh sáng, có mưa phùn, mua rào cần phun phòng bệnh đạo ôn cổ bông khi lúa thấp tho trỗ (trỗ 5% số bông) bằng một trong các loại thuốc nội hấp trên. Nếu ruộng lúa trước đó đã bị bệnh đạo ôn lá, hay có vết bệnh điển hình cần phun lại lần 2 khi lúa xuôi trái.
- Về liều lượng nồng độ: Nếu phun phòng bệnh (khi bệnh chưa xuất hiện) hoặc loại thuốc mới phun lần đầu dùng theo hướng dẫn trên bao bì của nhà sản xuất. Khi bệnh đã xâm nhập (có vết bệnh điển hình) hoặc thuốc đã phun nhiều lần cần tăng nồng độ lên 1,2 đến 1,5 lần, cũng có thể phối hợp hai loại thuốc tiếp xúc (New Hynosan 30EC) với một trong các loại thuốc nội hấp thì hiệu quả phòng, trừ bệnh mới cao. Dùng bình bơm có "béc" tia nhỏ để phun, cho thêm chất bám dinh vào dung dịch thuốc đã pha để tăng thêm hiệu quả của thuốc. Khi lúa trổ bông nên phun vào buổi chiều mát 16-18 h.