Phương pháp nuôi sò huyết trong đầm 

Được đăng : 13-12-2016 13:57:24
1. Cách thức nuôi và xây đầm Phương pháp nuôi sò huyết tại Trung Quốc chủ yếu có 2 loại : Nuôi ruộng và nuôi đầm. Loại thứ nhất là nuôi trong vùng lầy không ngập nước, hình thức nuôi này có thể tiến hành trên diện rộng. Nhưng phương pháp nuôi ruộng có mặt hạn chế là sò sinh trưởng chậm, sản lượng thu được không cao. Cách nuôi thứ hai là nuôi đầm : Tại khu vực cao và trung triều ở trong vịnh, người ta tiến hành xây đầm nuôi để khi thuỷ triều lên, nước có thể tràn qua đê vào trong đầm. Ưu điểm của phương pháp này là lợi dụng được thuỷ triều. Nhờ có nước trong đầm nuôi nên sò ăn dễ dàng hơn, sinh trưởng khá. Mặt khác, nhiệt độ của nước trong đầm nuôi tương đối ổn định, sò không bị chết vì thời tiết quá nóng hoặc quá lạnh. Nhược điểm của phương pháp này là diện tích nuôi hẹp, chi phí cho việc xây đầm và nhân công cao. Hình thức xây đầm nuôi sò ở các địa phương giống nhau, ngư dân tỉnh Triết Giang thường xây đầm hình tròn hoặc hình vuông, đầm ở tỉnh Phúc Kiến có hình chữ nhật.1.1 Ðầm hình vuông : Bao gồm : 1. Ðê ngăn, 2. Kênh dẫn nước, 3. Mặt đầm, 4. Ðê phụ, 5. Cửa dẫn nước. Ðầm có diện tích nhỏ. Ðê ngăn cao từ 1 - 1,5 m, nên đắp làm nhiều lần khiến đê ngăn chắc chắn hơn. Kênh dẫn nước sẽ đưa thuỷ triều vào mặt đầm, chiều rộng kênh khoảng 0,5 - 1m, sâu 0,5m. Ðê phụ có tác dụng ngăn không cho thuỷ triều tràn thẳng vào mặt đầm, đê cao..

1. Cách thức nuôi và xây đầm
Phương pháp nuôi sò huyết tại Trung Quốc chủ yếu có 2 loại : Nuôi ruộng và nuôi đầm. Loại thứ nhất là nuôi trong vùng lầy không ngập nước, hình thức nuôi này có thể tiến hành trên diện rộng. Nhưng phương pháp nuôi ruộng có mặt hạn chế là sò sinh trưởng chậm, sản lượng thu được không cao. Cách nuôi thứ hai là nuôi đầm : Tại khu vực cao và trung triều ở trong vịnh, người ta tiến hành xây đầm nuôi để khi thuỷ triều lên, nước có thể tràn qua đê vào trong đầm. Ưu điểm của phương pháp này là lợi dụng được thuỷ triều. Nhờ có nước trong đầm nuôi nên sò ăn dễ dàng hơn, sinh trưởng khá. Mặt khác, nhiệt độ của nước trong đầm nuôi tương đối ổn định, sò không bị chết vì thời tiết quá nóng hoặc quá lạnh. Nhược điểm của phương pháp này là diện tích nuôi hẹp, chi phí cho việc xây đầm và nhân công cao.
Hình thức xây đầm nuôi sò ở các địa phương giống nhau, ngư dân tỉnh Triết Giang thường xây đầm hình tròn hoặc hình vuông, đầm ở tỉnh Phúc Kiến có hình chữ nhật.
1.1 Ðầm hình vuông :
Bao gồm : 1. Ðê ngăn, 2. Kênh dẫn nước, 3. Mặt đầm, 4. Ðê phụ, 5. Cửa dẫn nước. Ðầm có diện tích nhỏ. Ðê ngăn cao từ 1 - 1,5 m, nên đắp làm nhiều lần khiến đê ngăn chắc chắn hơn. Kênh dẫn nước sẽ đưa thuỷ triều vào mặt đầm, chiều rộng kênh khoảng 0,5 - 1m, sâu 0,5m. Ðê phụ có tác dụng ngăn không cho thuỷ triều tràn thẳng vào mặt đầm, đê cao 0,6m, chiều rộng chân đê là 1,5m, chiều rộng mặt đê là 0,6m. Cửa dẫn nước giúp khống chế lượng nước biển vào đầm. Có thể dùng đá làm vật liệu xây cửa dẫn nước. Cần chú ý là cửa này không xây thẳng hướng thuỷ triều, nên đào một kênh dẫn nước để tạo cho việc cung cấp nước và tháo nước. Mặt đầm nên cao ở giữa và dốc đều về bốn phía sao cho lượng nước ngập trong dầm luôn giữ ở mức 0,3 - 0,5m. Trước khi thả sò giống, phải tiến hành cày và san đất cho mặt đầm bằng phẳng không bị lồi lõm.
1.2 Ðầm hình tròn :
Về cơ bản thì loại đầm này tương đối giống với đầm hình vuông đã nêu trên, chỉ có một điểm khác nhau giữa chúng đó là kênh dẫn nước và kênh thoát nước ở đầm hình tròn riêng biệt. Kênh dẫn nước dài từ 2 - 3m, xây tại khu vực có nước chảy mạnh, cửa dẫn nước phải có khẩu độ lớn, nếu thấy cần thiét có thể xây đồng thời hai cửa dẫn nước. Ðộ rộng của kênh thoát nước là 0,6 - 0,7m, bùn đất rất có thể bồi lấp kênh này do đó phải thường xuyên lưu ý độ sâu và độ trong của nước ở trong kênh, tránh trường hợp khi cần tiến hành thoát nước lại phải phá tạm cửa kênh.
1.3 Ðầm hình chữ nhật :
Loại đầm này có diện tích tương đối lớn, từ mấy mẫu tới mấy chục mẫu. Ðầm xây tại khu vực thuỷ triều mạnh (cao triều), hình thức xây dựng là ba mặt đầm đều tiếp xúc với nước, mặt còn lại dựa vào bờ, cũng có thể đồng thời bốn mặt đều tiếp xúc với nước. Ðể tiện thao tác, có thể chia mặt đầm làm nhiều luống nhỏ, giữa các luống này là rãnh dẫn nước. Ðộ sâu của nước trong đầm là 0,5m.
2. Mật độ thả giống
Mật độ thả giống phụ thuộc vào điều kiện của vùng biển xây đầm và phụ thuộc vào kích cỡ con giống, đặc điểm từng vùng. Quyết định mật độ thả con giống dựa vào những nguyên tắc sau : Triệt để tận dụng khả năng sản xuất tại vùng biển có đầm nuôi sò, nơi mà phần lớn các yếu tố hữu quan đều không ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của sò. Sò giống nếu thả quá dày thì lượng thức ăn cung cấp cho sò không đủ làm hạn chế tốc độ sinh trưởng, ảnh hưởng đến sản lượng thu hoạch.
3. Tổng hợp sử dụng đầm nuôi sò
Ðầm nuôi sò tại tỉnh Phúc Kiến, ngoài chức năng nuôi dưỡng sò huyết còn có thể kết hợp nuôi các loài hải sản khác như Notarchus leachii cirrosus. Việc nuôi kết hợp này nên tiến hành vào mùa xuân hoặc mùa hạ.
4. Công tác quản lý
Số giống một khi đã thả nuôi phải thường xuyên có người quản lý, kịp thời tu sửa đê bao của đầm nuôi, tránh bị rò nước ra ngoài, chú ý điều tiết lượng nước trong đầm. Cứ 15 ngày tháo nước một lần, kiểm tra sự sinh trưởng và điều kiện sống của sò, làm sạch đầm, loại bỏ sinh vật gây hại. Tiêu diệt các loài Muschlus senhousei và rong bún Enteromorpha spp ... Nếu phát hiện mật độ sò quá cao, sò sinh trưởng chậm, thì chuyển bớt một bộ phận tới nuôi ở đầm khác.
5. Thu hoạch
Sò huyết một năm tuổi có chiều dài 2 cm, hai năm là 2,8 cm, ba năm 3,2 cm. Sau 3 năm tốc độ sinh trưởng giảm. Ðây cũng chính là thời gian tỷ lệ sò chết cao. Vì vậy, ngay khi sò đạt trên 3 cm, phải tiến hành thu hoạch ngay.
Thời gian thu hoạch là từ tháng 11 tới tháng 3, lúc này thịt sò chắc, mùi vị thơm ngon. Tại ruộng nuôi không ngập nước, mỗi ha cho sản lượng là 22.500 kg. Nếu nuôi tốt sản lượng thu được cũng chỉ là 52.500 kg, còn sản lượng tại đầm nuôi là 75.000 kg/ha. Nếu thả 5,4 triệu con (cỡ 600 con/kg) vào 0,4 ha đầm nuôi thì sau 21 tháng sẽ thu được 36.000 kg sò, tức là bình quân mỗi mẫu thu được 6.000 kg sò.