-
Xây dựng ao, lồng nuôi cua gạch
Có thể nuôi cua trong ao hoặc trong lồng. Nếu nuôi cua trong ao, quy cách ao và cách xây dựng cũng tương tự như nuôi cua con thành cua thịt. Nếu nuôi trong lồng nên theo quy cách sau: Lồng dài 2-3m, rộng 1,5-2m. Lồng được làm..
Có thể nuôi cua trong ao hoặc trong lồng. Nếu nuôi cua trong ao, quy cách ao và cách xây dựng cũng tương tự như nuôi cua con thành cua thịt. Nếu nuôi trong lồng nên theo quy cách sau: Lồng dài 2-3m, rộng 1,5-2m. Lồng được làm..
Readmore
Có thể nuôi cua trong ao hoặc trong lồng. Nếu nuôi cua trong ao, quy cách ao và cách xây dựng cũng tương tự như nuôi cua con thành cua thịt. Nếu nuôi trong lồng nên theo quy cách sau: Lồng dài 2-3m, rộng 1,5-2m. Lồng được làm bằng tre hay gỗ chịu nước, các thanh tre mỏng, bản rộng khoảng 3cm được đóng song song cách nhau 1,5-2cm, mặt trên có miệng với nắp đậy 0,5mx0,5m.
Nên ngăn lồng thành 2-3 ngăn để cua phân bố đều trong lồng và tăng không gian hoạt động, đồng thời có thể dùng để phân loại cua khi thu hoạch nếu cần thiết.
Nên dùng tre hoặc dùng thùng nhựa để làm phao và giữ lồng luôn ngập 0,7-1m nước. Lồng được đặt ở ven sông nơi có nước chảy vừa phải, không bị nhiễm bẩn, có neo hay cọc giữ lồng để không bị cuốn trôi.
-
Sản xuất cua giống
Có thể tuyển chọn cua cái đã giao vĩ, lên gạch hoặc cua cái so (cua yếm vuông) nuôi chung với cua đực đã thành thục sinh dục, để cua cái so lột xác, giao vĩ, lên gạch đẻ trứng.- Nuôi cua cái đã giao vĩ: Trước mùa sinh sản vào khoảng tháng 8, tháng 9, cua cái đã giao vĩ có tuyến sinh dục phát triển thường đánh bắt được ở vùng cửa sông, vùng biển ven bờ. Chọn những con cua cái lên gạch tốt,..
Có thể tuyển chọn cua cái đã giao vĩ, lên gạch hoặc cua cái so (cua yếm vuông) nuôi chung với cua đực đã thành thục sinh dục, để cua cái so lột xác, giao vĩ, lên gạch đẻ trứng.- Nuôi cua cái đã giao vĩ: Trước mùa sinh sản vào khoảng tháng 8, tháng 9, cua cái đã giao vĩ có tuyến sinh dục phát triển thường đánh bắt được ở vùng cửa sông, vùng biển ven bờ. Chọn những con cua cái lên gạch tốt, khỏe mạnh, còn nguyên càng, chân bò, chân bơi, tốt nhất là chọn những con cua vừa đánh bắt được, chuyển về ao hoặc các bể xi măng để nuôi vỗ. Những con cua cái như vậy thường có trọng lượng từ 250-800g.- Nuôi trong bể xi măng: Bể xi măng có diện..
Readmore
Có thể tuyển chọn cua cái đã giao vĩ, lên gạch hoặc cua cái so (cua yếm vuông) nuôi chung với cua đực đã thành thục sinh dục, để cua cái so lột xác, giao vĩ, lên gạch đẻ trứng.
- Nuôi cua cái đã giao vĩ: Trước mùa sinh sản vào khoảng tháng 8, tháng 9, cua cái đã giao vĩ có tuyến sinh dục phát triển thường đánh bắt được ở vùng cửa sông, vùng biển ven bờ. Chọn những con cua cái lên gạch tốt, khỏe mạnh, còn nguyên càng, chân bò, chân bơi, tốt nhất là chọn những con cua vừa đánh bắt được, chuyển về ao hoặc các bể xi măng để nuôi vỗ. Những con cua cái như vậy thường có trọng lượng từ 250-800g.
- Nuôi trong bể xi măng: Bể xi măng có diện tích từ 4 đến 30m2, cao 1,3m, có thể hình vuông, hình chữ nhật, hình tròn có mái che toàn bộ hoặc một phần. Đáy bể rải một lớp cát dày 3-5cm, sắp một số gạch để làm chỗ ẩn cho cua, đáy có van xả để thay nước. Mực nước trong bể từ 0,7 đến 1m, có hệ thống sục khí. Có thể nuôi chung hoặc chia ô để nuôi riêng từng con. Mật độ 2 con/m3. Nuôi trong bể xi măng dễ chăm sóc quản lý nhưng phải có điện và cấp nước chủ động, thường số lượng cua không lớn.
- Chăm sóc, quản lý: Nếu áp dụng phương pháp cắt mắt để ép đẻ thì có thể tiến hành trước lúc thả cua vào bể nuôi. Dùng lưỡi dao lam sắc đã sát trùng cắt một đường vào giữa con mắt, dùng tay bóp mạnh hoặc kẹp bóp hết dịch ở mắt ra, sau đó sát trùng vết cắt. Cần theo dõi kỹ các yếu tố của môi trường nước. Cua chuẩn bị sinh sản cần được nuôi trong nước biển có độ mặn từ 25 đến 32‰, độ pH từ 7,5 đến 8,5, hàm lượng ôxy hoà tan không dưới 5mg/l, nhiệt độ nước từ 27 đến 30 độ C, không để nước bị nhiễm bẩn hữu cơ và vô cơ. Cần thay nước trong ao nuôi, trong bể: Mỗi ngày thay 20 đến 30% nước, một tuần nên thay nước toàn bộ và vệ sinh bể, đáy ao. Cua nuôi trong bể xi măng nên sục khí nhẹ.
Thức ăn của cua rất đa dạng. Cua thích ăn động vật: Cá, tôm, các loại nhuyễn thể (nghêu, sò, vẹm...) và một số thực vật thủy sinh. Số lượng thức ăn mỗi lần từ 2-5% trọng lượng cua, tùy theo chất lượng thức ăn. Thường cho cua ăn vào buổi chiều tối, cua sẽ tìm mồi ăn về đêm. Buổi sáng kiểm tra nếu còn thức ăn thừa thì vớt bỏ đi. Không nên để cua đói, vì khi đói chúng sẽ ăn thịt lẫn nhau.
-
Kỹ thuật nuôi cua lột
Ao nuôiCó 3 loại ao nuôi:- Ao nuôi cua nguyên liệu: Diệån tích 500-1.000m2, sâu 0,8-1m. Ao có 2 cống cấp và thoát nước. Bờ và xung quanh ao rào chắn phên, đăng lưới để chống thất thoát cua.- Ao nuôi cua tạo "nu" (cua tái sinh càng chân): Diện tích 200-300m2, sâu 0,6-0,8m, có 2 cống cấp, thoát nước. Ao có hình chữ nhật, chiều dài gấp 4-5 lần chiều rộng để dễ thu hoạch cua. Đáy ao bằng phẳng, hơi dốc về phía cống..
Ao nuôiCó 3 loại ao nuôi:- Ao nuôi cua nguyên liệu: Diệån tích 500-1.000m2, sâu 0,8-1m. Ao có 2 cống cấp và thoát nước. Bờ và xung quanh ao rào chắn phên, đăng lưới để chống thất thoát cua.- Ao nuôi cua tạo "nu" (cua tái sinh càng chân): Diện tích 200-300m2, sâu 0,6-0,8m, có 2 cống cấp, thoát nước. Ao có hình chữ nhật, chiều dài gấp 4-5 lần chiều rộng để dễ thu hoạch cua. Đáy ao bằng phẳng, hơi dốc về phía cống thoát nước, nền đáy là đất thịt pha sét, lớp bùn dày không quá 15cm.- Ao nuôi cua lột: Có diện tích 150-200m2, ngoài ra có thể nuôi trong lồng với kích thước (1,5-2)m chiều dài x (1-1,2)m chiều rộng x (0,5-0,7)m chiều cao; làm bằng tre, ngập nước 0,25-0,3m.Nuôi cuaNuôi cua nguyên liệuCua nguyên liệu được thu gom ở các..
Readmore
Ao nuôi
Có 3 loại ao nuôi:
- Ao nuôi cua nguyên liệu: Diệån tích 500-1.000m2, sâu 0,8-1m. Ao có 2 cống cấp và thoát nước. Bờ và xung quanh ao rào chắn phên, đăng lưới để chống thất thoát cua.
- Ao nuôi cua tạo "nu" (cua tái sinh càng chân): Diện tích 200-300m2, sâu 0,6-0,8m, có 2 cống cấp, thoát nước. Ao có hình chữ nhật, chiều dài gấp 4-5 lần chiều rộng để dễ thu hoạch cua. Đáy ao bằng phẳng, hơi dốc về phía cống thoát nước, nền đáy là đất thịt pha sét, lớp bùn dày không quá 15cm.
- Ao nuôi cua lột: Có diện tích 150-200m2, ngoài ra có thể nuôi trong lồng với kích thước (1,5-2)m chiều dài x (1-1,2)m chiều rộng x (0,5-0,7)m chiều cao; làm bằng tre, ngập nước 0,25-0,3m.
Nuôi cua
Nuôi cua nguyên liệu
Cua nguyên liệu được thu gom ở các ao nuôi cua thịt để phục vụ cho nuôi cua lột, theo tiêu chuẩn: khối lượng 50-100g/con, không bị tổn thương ở mai, có đầy đủ các chân, càng, cua bò di chuyển nhanh nhẹn.
- Cua thường lột quanh năm nhưng tập trung vào từ tháng 3-7, nên phải tuyển chọn cua nguyên liệu đưa vào nuôi từ tháng 2.
- Mật độ nuôi từ 10-12 con/m2.
- Thức ăn nuôi cua là cá tạp, moi, ốc, nhuyễn thể... Khẩu phần thức ăn chiếm 3-4% khối lượng cua nuôi. Ngày cho cua ăn 2 lần vào sáng và chiều tối.
Nuôi cua tạo nu
Vào mùa cua lột, chọn cua nguyên liệu đưa vào ao tạo nu.
- Trước khi thả nuôi cần tiến hành kích thích cua tạo nu như sau: bắt từng con cua, dùng kìm bẻ nhẹ đôi càng, những đôi chân bò, chỉ để lại chân bơi. Chú ý khi bẻ dùng kìm dẹp phân giữa của càng hoặc chân bấm nhẹ, không được kẹp sát mai hay bẻ quá mạnh làm tổn thương đến việc tái sinh càng và chân. Tiếp đó đặt cua vào khay men chứa 5-10cm nước.
- Sau đó đem cua đã bẻ càng và chân thả vào ao nuôi nu. Mật độ nuôi từ 25-50 con/m2, mực nước trong ao nuôi nu 0,6-0,8m. Thay nước cho ao nuôi hàng ngày theo lịch thuỷ triều.
- Cho cua ăn cá tạp hoặc đầu tôm, nhuyễn thể, rau củ băm nhỏ, trộn đều. Khẩu phần thức ăn và số lần cho ăn giống như nuôi cua nguyên liệu.
- Sau khi nuôi được từ 7-10 ngày, kiểm tra cua nếu thấy càng và chân đã tái sinh nhú mầm (mọc nu), chuyển cua sang nuôi ở ao hoặc lồng nuôi để cua lột.
Nuôi cua lột (trong lồng)
- Bắt những con cua đã nhú mầm tái sinh càng, chân thả vào lồng nuôi.
- Mật độ 3-5kg/m3 lồng.
- Cho cua ăn bình thường và thường xuyên theo dõi cua lột xác. Nếu thấy càng, chân tái sinh hoàn chỉnh, mai cua khô giòn có vết nứt vòng quanh mai là cua chuẩn bị lột xác.
- Sau khi cua lột xác 1-2 giờ phải nhanh chóng nhặt cua đem bảo quản.
- Dụng cụ bảo quản cua lột gồm: thùng gỗ kích thước 1,5x1,8x0,4m, trong thùng có lót lớp vải.
- Cua được xếp vào thùng theo từng lớp, giữa các lớp lót một lớp lá làm lớp đệm, được rửa sạch và còn ướt để giữ ẩm.
- Khi xếp cua vào thùng không để ánh sáng chiếu vào cua và gió lùa vào thùng.
Nếu điều kiện bảo quản tốt thì cua có thể để được trong 92 giờ.
-
Kỹ thuật nuôi và phòng bệnh cho rùa thịt
Ao nuôi rùa thịt:Có thể xây trong nhà hoặc ngoài trời. Diện tích 3-20m2, hình chữ nật. Ao sâu 0,8-1,5m, từ mép nước đến bờ tường xây gạch có độ dốc 25oC để rùa bò lên nghỉ ngơi, ăn uống… Nếu là bể ngoài trời thì nên có dàn che, diện tích khoảng một nửa diện tích ao. Xung quanh có tường rào để rùa không trốn đi, lúc cần cũng có thể dùng bể để nuôi rùa mới nở, rùa giống.Nuôi rùa giống, rùa thịt:Sau 1 tháng đạt 15-20g chuyển sang ao nuôi giống, mật độ 50 con/m2.Sau 2 tháng có thể nặng 50g chuyển sang nuôi rùa thịt. Mật độ 30con/m2. Nếu ao nuôi có nước chảy, mật độ..
Ao nuôi rùa thịt:Có thể xây trong nhà hoặc ngoài trời. Diện tích 3-20m2, hình chữ nật. Ao sâu 0,8-1,5m, từ mép nước đến bờ tường xây gạch có độ dốc 25oC để rùa bò lên nghỉ ngơi, ăn uống… Nếu là bể ngoài trời thì nên có dàn che, diện tích khoảng một nửa diện tích ao. Xung quanh có tường rào để rùa không trốn đi, lúc cần cũng có thể dùng bể để nuôi rùa mới nở, rùa giống.Nuôi rùa giống, rùa thịt:Sau 1 tháng đạt 15-20g chuyển sang ao nuôi giống, mật độ 50 con/m2.Sau 2 tháng có thể nặng 50g chuyển sang nuôi rùa thịt. Mật độ 30con/m2. Nếu ao nuôi có nước chảy, mật độ có thể 45con/m2.Mỗi khi san ao phải phân loại rùa riêng để phòng chúng chèn ép, thậm chí ăn thịt lẫn nhau.Thức ăn chủ yếu của rùa là động vật giàu đạm. Tỷ lệ thức ăn động vật và thực vật là 3:1. Có thể: động vật 80%, thực vật 16-18%, men tiêu hóa, 0,2%, vitamin 0,4%, nguyên tố vi lượng khác 2%. Mỗi ngày cho ăn 1-2 lần, mỗi lần số lượng thức ăn dọn sạch sàn ăn. Có điều chỉnh lượng thức ăn theo thời tiết để tránh lãng phí ảnh hưởng đến chất nước.Rùa thích sống ỏ vùng nước sạch, nếu không có nước chảy phải thường xuyên thay nước. Ao giống nên đảm bảo nước xanh nhạt, độ trong 30cm. Nước trong nhìn thấy đáy làm cho rùa không an tâm sinh sống. Nước quá béo, màu xanh lục thẫm..
Readmore
Ao nuôi rùa thịt:
Có thể xây trong nhà hoặc ngoài trời. Diện tích 3-20m2, hình chữ nật. Ao sâu 0,8-1,5m, từ mép nước đến bờ tường xây gạch có độ dốc 25oC để rùa bò lên nghỉ ngơi, ăn uống… Nếu là bể ngoài trời thì nên có dàn che, diện tích khoảng một nửa diện tích ao. Xung quanh có tường rào để rùa không trốn đi, lúc cần cũng có thể dùng bể để nuôi rùa mới nở, rùa giống.
Nuôi rùa giống, rùa thịt:
Sau 1 tháng đạt 15-20g chuyển sang ao nuôi giống, mật độ 50 con/m2.
Sau 2 tháng có thể nặng 50g chuyển sang nuôi rùa thịt. Mật độ 30con/m2. Nếu ao nuôi có nước chảy, mật độ có thể 45con/m2.
Mỗi khi san ao phải phân loại rùa riêng để phòng chúng chèn ép, thậm chí ăn thịt lẫn nhau.
Thức ăn chủ yếu của rùa là động vật giàu đạm. Tỷ lệ thức ăn động vật và thực vật là 3:1. Có thể: động vật 80%, thực vật 16-18%, men tiêu hóa, 0,2%, vitamin 0,4%, nguyên tố vi lượng khác 2%. Mỗi ngày cho ăn 1-2 lần, mỗi lần số lượng thức ăn dọn sạch sàn ăn. Có điều chỉnh lượng thức ăn theo thời tiết để tránh lãng phí ảnh hưởng đến chất nước.
Rùa thích sống ỏ vùng nước sạch, nếu không có nước chảy phải thường xuyên thay nước. Ao giống nên đảm bảo nước xanh nhạt, độ trong 30cm. Nước trong nhìn thấy đáy làm cho rùa không an tâm sinh sống. Nước quá béo, màu xanh lục thẫm hay xanh nâu sinh vật phù du quá nhiều làm cho rùa không thấy đường tìm mối sẽ ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát dục, cần phải thay nước và thêm nước mới vào.
Về mùa đông rùa có thể tự đào hang trú đông, đáy ao nên có lớp bùn cát dày 20-30cm.
Miệng cống ao có lưới bịt kín, nếu bể ở trong nhà có thể sưởi ấm bằng cách gia nhiệt. Ao trú đông có thể thả mật độ dày gấp 3-4 lần ao bình thương. Trước khi trú đông cho rùa ăn thức ăn giàu dinh dưỡng để chúng tích lũy mỡ dùng trong mùa đông.
Phòng và trị bệnh cho rùa:
Trong quá trình nuôi phải thực hiện nghiêm ngặt các khâu xây ao, tẩy ao nuôi, chọn giống, cho đẻ, quản lí chăm sóc. Đặc biệt là phòng trị một số bệnh sau:
1. Bệnh sưng cổ
Là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn gây ra.
Triệu chứng:
Cổ sưng to, bụng có các nốt mụn đỏ, mắt trắng đục khi bị nặng chải máu mũi, hai mắt sưng đỏ có khi bị mù.
Cách phòng trị:
- Đảm bảo nước ao nuôi sạch sẽ.
- Trộn thuốc Tetracycline hay Chlorocid hoặc Sulfamid.. vào thức ăn, cho ăn trong 3 ngày liền, lượng thuốc ngày đầu 0,2g/kg thức ăn, các ngày sau giảm đi một nửa.
2. Bệnh thủy mi
Do nấm thủy mi gây ra thường vào mùa xuân, nhiệt độ lạnh (18-20oC).
Triệu chứng:
Trên vùng da bị thương có các bông nấm trắng thường kí sinh ở cổ, chân, mai, bụng. Lúc mới phát bệnh rùa thường kém ăn, lờ đờ. Bệnh nặng lưng mềm và mỏng, hoạt động yếu ớt rồi chết.
Cách phòng trị:
Cho rùa bò lên cạn phơi nắng để diệt nấm, đảm bảo nước ao sạch sẽ. Ngâm rùa trong dung dịch xanh malachit 1,5-2g/m3 nước.
3. Bệnh loét da
Bệnh do nhiễm trùng vết thương gây ra, chất độc do các vi khuẩn tiết ra làm loét da chân, cổ, nách.. khi nặng còn lòi cả xương.
Cách phòng trị:
- Đảm bảo nước ao luôn sạch sẽ.
- Cách li con bệnh với con khỏe.
- Ngâm con bệnh vào dung dịch thuốc kháng sinh 10ppm Sulfamid trong 48 giờ.
- Hạn chế rùa cắn nhau dễ bị thương.
4. Bệnh nấm lông (Bệnh đốm trắng)
Là bệnh truyền nhiễm do nấm gây ra. Bốn chân và viền mép có đốm, lúc đầu xuất hiện ở viền áo sau đó lan rộng thành đóm trắng làm cho da bị thối rữa, rùa kém ăn, hoạt động không bình thường. Nếu bệnh phát sinh ở hầu làm rùa khó thở mà chết.
Bệnh xảy ra thường vào tháng 5- đến tháng 7.
Cách chữa:
Khi có bệnh dùng vôi tẩy ao, đảm bảo nước luôn sạch. Rùa bị bệnh dùng thuốc mỡ xanh methylen hay thuốc mỡ Tetracyline 1% bôi vào chỗ có nấm. Dùng Refamicine cộng với Chlorocide mỡ bôi lên vết loét, bôi trực tiếp vào vết loét khi bóp kén ra.
5. Bệnh lở cổ
Là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn nấm gây ra, cho bị benẹh sinh vật bám như miếng bông. Cổ hoạt động khó khăn, kém ăn, có con không cử động, nếu không chữa, sau vài ngày là chết.
Cách chữa:
- Dùng nước muối 5% tắm cho rùa 1 giờ, hoặc dùng 5 phần vạn xanh methylen tắm trong 15 phút, hoặc dùng các loại thuốc mỡ Penicilin bôi vào chổ bệnh.
6. Bệnh cổ đỏ
Là loại bệnh truyền nhiễm, tác nhân gây bệnh có thẻ là vi rút, cũng có thể là vi khuẩn đơn bào.
Bệnh hay phát sinh vào mùa mưa phùn. Con bị bệnh bụng có đốm đỏ, hầu và cổ sưng, đầu thò ra nhưng không rụt lại được, hoạt động chậm chạp, kém ăn. Bệnh nặng thì mồm và mũi chảy máu, ruột viêm tấy, toàn thân sưng đỏ, mắt đục trắng, bị mù, không bao lâu thì chết.
Cách chữa:
Khi phát hiện bệnh lập tức cách li con bệnh, dùng vôi tẩy ao và thay nước mới. Dùng các loại kháng sinh Biomyxine, Tetracyline, Penniciliene. Mỗi kilogam trọng lượng tiêm 15 vạn đơn vị (tiêm vào chân). Nếu thấy không giảm thì dùng tiếp một liều nữa hoặc thay kháng sinh khác. Hoặc trộn thuốc vào thức ăn. Mỗi kilôgam rùa cho ăn 0,2g Sulfamid, qua ngày thứ 2 giảm một nửa, cho ăn liên tục 6 ngày.
-
Kỹ thuật nhân giống rùa
Chọn nơi có điều kiện sinh thái gần giống với tự nhiên, ao hướng Bắc nam, tránh gió Bắc, hướng về phía mặt trời, đất tơi mềm, nguồn nước dồi dào, cấp thoát nước thuận tiện, yên tĩnh, không bị nhiễm bẩn.Diện tích ao nuôi: 20-100m2. Ao sâu: 1,5m, nước sâu 1,2m.Xung quanh ao cách mép nước 1-2m có tường rào cao 0,5 m, tường trát nhẵn, trên tường có gờ nhô ra về phía ao độ 10 cm, chân tường sâu 60-70cm. Giữa ao cần có mô đất 3-5m2, độ dốc 25o, trên mô đất trống các loại cây làm dàn che mát, làm nơi rùa nghỉ và đẻ trứng.Đáy ao nên bừa kĩ, lớp đất cát dưới đáy ao dày 20-30cm để rùa trú đông. Bờ ao có độ dốc nhất định cho một lớp đất cát pha để rùa đào hố đẻ trứng. Ngoài ra trồng..
Chọn nơi có điều kiện sinh thái gần giống với tự nhiên, ao hướng Bắc nam, tránh gió Bắc, hướng về phía mặt trời, đất tơi mềm, nguồn nước dồi dào, cấp thoát nước thuận tiện, yên tĩnh, không bị nhiễm bẩn.Diện tích ao nuôi: 20-100m2. Ao sâu: 1,5m, nước sâu 1,2m.Xung quanh ao cách mép nước 1-2m có tường rào cao 0,5 m, tường trát nhẵn, trên tường có gờ nhô ra về phía ao độ 10 cm, chân tường sâu 60-70cm. Giữa ao cần có mô đất 3-5m2, độ dốc 25o, trên mô đất trống các loại cây làm dàn che mát, làm nơi rùa nghỉ và đẻ trứng.Đáy ao nên bừa kĩ, lớp đất cát dưới đáy ao dày 20-30cm để rùa trú đông. Bờ ao có độ dốc nhất định cho một lớp đất cát pha để rùa đào hố đẻ trứng. Ngoài ra trồng ít cây bóng mát hoặc cho cây leo tạo thành nơi yên tĩnh.Bể bơi rùa mới nởThường dùng gạch và xi măng xây trong nhà có tyhành trơn nhẵn, bể hình chữ nhật.Diện tích mỗi bể 2-3 m2, cao 0,8m, nước sâu 0,2-0,3m. Đáy bể có độ dốc nhất định, một đầu bể có nước, đầu kia không ngập nước để rùa bò ra ăn uống nghỉ ngơi, nhà ấp cần thông thoáng, mát, mùa đông cần che chắn kín gió, trên bể che đậy bằng tấm nhựa.Sự giao phốiHàng năm tháng 8-9 là mùa giao phối và đẻ trứng, thường giao phối vào đêm sáng trời. Khi động hớn nổi lên mặt nước khuấy mạnh bò lên cạn rất nhanh. Con đực chủ động theo con cái hoặc quay tròn quanh con cái, con cái lại không cho bò đi… tiến hành giao phối. Đặc điểm cảu rùa là giao phối năm này sang năm sau tinh trùng vẫn có khả năng thụ tinh, trong điều kiện nuôi tỉ lệ là 1 đực 2 cái, hoặc 1 đực 3 cái.Đẻ trứngMùa đẻ tháng 4-9, tập trung vào trung tuần tháng 6 đến thượng tuần tháng 7. Khi nhiệt độ không khí trên 20oC kéo dài 5-10 ngày con cái bắt đầu đẻ trứng. Đa số một năm một lứa, mỗi lứa khoảng 2 quả trứng, có một số con..
Readmore
Chọn nơi có điều kiện sinh thái gần giống với tự nhiên, ao hướng Bắc nam, tránh gió Bắc, hướng về phía mặt trời, đất tơi mềm, nguồn nước dồi dào, cấp thoát nước thuận tiện, yên tĩnh, không bị nhiễm bẩn.
Diện tích ao nuôi: 20-100m2. Ao sâu: 1,5m, nước sâu 1,2m.
Xung quanh ao cách mép nước 1-2m có tường rào cao 0,5 m, tường trát nhẵn, trên tường có gờ nhô ra về phía ao độ 10 cm, chân tường sâu 60-70cm. Giữa ao cần có mô đất 3-5m2, độ dốc 25o, trên mô đất trống các loại cây làm dàn che mát, làm nơi rùa nghỉ và đẻ trứng.
Đáy ao nên bừa kĩ, lớp đất cát dưới đáy ao dày 20-30cm để rùa trú đông. Bờ ao có độ dốc nhất định cho một lớp đất cát pha để rùa đào hố đẻ trứng. Ngoài ra trồng ít cây bóng mát hoặc cho cây leo tạo thành nơi yên tĩnh.
Bể bơi rùa mới nở
Thường dùng gạch và xi măng xây trong nhà có tyhành trơn nhẵn, bể hình chữ nhật.
Diện tích mỗi bể 2-3 m2, cao 0,8m, nước sâu 0,2-0,3m. Đáy bể có độ dốc nhất định, một đầu bể có nước, đầu kia không ngập nước để rùa bò ra ăn uống nghỉ ngơi, nhà ấp cần thông thoáng, mát, mùa đông cần che chắn kín gió, trên bể che đậy bằng tấm nhựa.
Sự giao phối
Hàng năm tháng 8-9 là mùa giao phối và đẻ trứng, thường giao phối vào đêm sáng trời. Khi động hớn nổi lên mặt nước khuấy mạnh bò lên cạn rất nhanh. Con đực chủ động theo con cái hoặc quay tròn quanh con cái, con cái lại không cho bò đi… tiến hành giao phối. Đặc điểm cảu rùa là giao phối năm này sang năm sau tinh trùng vẫn có khả năng thụ tinh, trong điều kiện nuôi tỉ lệ là 1 đực 2 cái, hoặc 1 đực 3 cái.
Đẻ trứng
Mùa đẻ tháng 4-9, tập trung vào trung tuần tháng 6 đến thượng tuần tháng 7. Khi nhiệt độ không khí trên 20oC kéo dài 5-10 ngày con cái bắt đầu đẻ trứng. Đa số một năm một lứa, mỗi lứa khoảng 2 quả trứng, có một số con một năm đẻ hai lứa, cá biệt ba lứa.
Trước luc đẻ bò khắp nơi tìm chỗ đất xốp, sườn dốc, kín để đào ổ dưới gốc cây hay bụi cỏ rậm.
Nơi đào ổ có hàm lượng nước 5-20%, trước khi đào thành hố, dùng chân sau và đuôi hất đất sang hai bên. Khoảng 2-3 giờ được một hố sâu 5-15cm, đường kính khoảng 8-12cm. Trời khô, hàm lượng nước trong đất 5% thì rùa đào vào buổi sáng chọn chỗ đất ẩm ướt, có con dùng nước tiểu của nó tưới lên cho đất mềm dễ đào. Nếu hàm lượng nước trên 30% khó đào.
Sau khi đào xong hố nó nghỉ một lát rồi đẻ trứng. Dùng chân sau xếp trứng đúng vào hố, trứng vừa đẻ vỏ mềm có tính đàn hổi, sau đó vỏ trứng cứng dần. Thời gian giữa trứng thứ nhất đến trứng thứ hai là 5-10 phút.
Trứng hình ô van cỡ 27-50mm, cỡ to 18,3g, nhỏ 12,5g, trung bình 15,25g, tỉ lệ thụ tinh 70-90%.
Ấp nở nhân tạo
Ấp nhân tạo
Dụng cụ ấp gồm thùng ấp, lợi dụng nhà ấp gà, lò ấp trứng vịt để ấp. Tùy số lượng trứng và yếu tố kĩ thuật. Trứng vừa đẻ ra có màu trong chưa phân biệt được có thụ tinh hay không. Sau khi đẻ 48-72 giờ có thể phân biệt. Vỏ trứng thụ tinh sáng có vòng tròn màu trắng sữa. Đem trứng thụ tinh xếp vào thùng đặt phần có vòng tròn trắng lên trên, trứng cách trứng 3-5 cm, trên phủ cát dày 3-4cm, trên mỗi thùng có lỗ nhỏ để khi trứng nở thành rùa con có chỗ chui lên trên thúng ấp phủ lớp bông ướt, dùng nước phun ẩm. Độ ẩm không khí 70-85%, nhiệt độ 25-34o C là tốt nhất. Trong thùng cần cắm nhiệt kế và ẩm kế cho tiện theo dõi, tỉ lệ nở 75-80%.
Nếu thùng ấp dùng đất thít thì lớp đất dày 20cm, vùi trứng sâu 10-13cm, khi trứng sắp nở thì bớt lớp đất trên mỏng đi một ít, lượng nước trong đất là 12-16%, cách 3-5 ngày phun nước một lần. Nhiệt độ không khí 22-34oC, độ ẩm 75-80%, tỉ lệ nở đạt 94%.
Quản lí chăm sóc
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thời gian nở. Trong tự nhiên thời gian nở 80-90 ngày có khi đến 100 ngày. Ấp nhân tạo khoảng 70 ngày. Khi nhiệt độ dưới 18oC và trên 37oC thì phôi không phát triển và chết.
Đất dùng để ấp vừa đảm bảo giữ được nước vừa thông thoáng không khí, không sinh nấm mốc. Dùng cát vàng hay cát đen để ấp thì biên độ giao động nhiệt độ tương đối lớn, khi bị ánh nắng mặt trời chiều vào nhiệt độ lên cao, hơi nước bốc nhanh làm nhiệt độ ấp cũng tăng nhanh, phôi dễ chết, nếu phun thêm nước để duy trì độ ẩm lại dễ xuất hiện tích nước tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển. Thực tiễn dùng cát vàng, cát đen không tốt bằng đất thịt. dùng đất sâu cách mặt đất 60cm không có mùn bã hữu cơ, đất nhỏ cỡ 1cm, phơi thật khô để diệt khuẩn, phun nước để có độ ẩm 12-16% như vậy đất thông thoáng, giữ ẩm, giữ nhiệt tốt.
Quá trình phát triển của phôi, càng về giai đoạn cuối cùng càng nhạy cảm với điều kiện môi trường, trao đổi khí càng mạnh nên dễ chết. Trứng đã ấp 20 ngày không nên di động vì trứng rùa lòng trắng rất ít, nếu di động trứng rất dễ bị thương và phôi chết.
Khi ấp trứng rùa là dịp tốt để rắn, chuột, kiến mò đến ăn hại nên phải dọn sạch xung quanh không để cho chúng có nơi ẩn náu. Nếu ấp trong nhà phải có thuốc diệt chuột, kiến, rùa, lúa rùa con phá vỏ chui ra kiến thường đến ngay để đốt, cần làm ngay các rãnh nước ngăn kiến, phá các ổ trứng kiến nếu có.
Có thể làm động tách kích thích để trứng nở tập trung như: Khi thấy vài trứng đã nở thì lấy hết trứng đang ấp trong đất ra cho vào nước có nhiệt độ ấp hoặc để trên đât sau 10-12 phút rùa con sẽ dùng mồm phá vỡ vỏ trứng chui ra, nếu sau 25 phút không thấy trứng nở thì lại đưa vào thùng ấp như cũ.
Rùa mới nở
Thân còn yếu, chưa bắt mồi được, đưa rùa con vào khay gỗ cho rùa tự vận động khoảng 4-5 giờ, dùng nước muối có nồng độ 10% hoặc thuốc tím 1g/1m3 tắm cho rùa. Sau 2 ngày cho rùa ăn lòng đỏ trứng gà luộc chín, sau 1 tuần lễ đưa ra bể nuôi.
Nuôi rùa con (sau 1 tuần lễ).
Lúc này cơ thể nặng 10g, thả 50-100con/m2. Trước khi nuôi dùng vôi dọn sạch bể, để khô rồi mới lấy nước vào, nước sâu 0,2-0,3m. Khả năng tiêu hóa của rùa con rất yếu nên thức ăn phải đạt yêu cầu: tinh, nhỏ, mềm, , giá trị dinh dưỡng cao, thường cho ăn cá, tôm, thịt bò, thịt nạc, giun xay nhuyễn, tốt nhất trộn với lòng đỏ trứng thành hỗn hợp. Không nên cho ăn nhiều mỡ để phòng bệnh viêm ruột. Lượng thức ăn bằng 3-5% trọng lượng thân. Ngày cho ăn 2 lần; sáng và chiều tối. Lượng cho ăn phải điều chỉnh theo thời tiết, việc quản lí nước phải thật nghiêm khắc, vì rủa còn rất nhạy cảm với nhiệt độ nước, nhiệt độ thích hợp 25-30oC, lúc mới nỏ cũng là tháng có nhiệt độ cao, phải tăng thêm nước hoặc giảm mật độ nuôi. Khi phát hiện bệnh phải xử lí kịp thời.
-
Nuôi ba ba thịt
Có thể nuôi trong bể xây hay ao đấtAo nuôi:Diện tích: 100 - 600 (m2)Độ sâu: 1 - 1,5m.Độ trong: 30cm- Nước sạch, cấp thoát nước chủ động, yên tĩnh, gần nhà để dễ bảo vệ.Xung quanh ao, hay một phần của ao nên để một phần đất làm vườn trồng cây bóng mát, cây ăn quả có giá trị. Vườn là điều kiện sinh thái rất thích hợp với đời sống của ba ba nuôi trong ao.Đáy ao có lớp bùn dày 10 - 20cm.Quanh ao, vườn xây tường cao 0,7- 0,8m, đỉnh tường có gờ ngang rộng 10cm (ở phía lòng ao) để..
Có thể nuôi trong bể xây hay ao đấtAo nuôi:Diện tích: 100 - 600 (m2)Độ sâu: 1 - 1,5m.Độ trong: 30cm- Nước sạch, cấp thoát nước chủ động, yên tĩnh, gần nhà để dễ bảo vệ.Xung quanh ao, hay một phần của ao nên để một phần đất làm vườn trồng cây bóng mát, cây ăn quả có giá trị. Vườn là điều kiện sinh thái rất thích hợp với đời sống của ba ba nuôi trong ao.Đáy ao có lớp bùn dày 10 - 20cm.Quanh ao, vườn xây tường cao 0,7- 0,8m, đỉnh tường có gờ ngang rộng 10cm (ở phía lòng ao) để ba ba khỏi bò đi mất.- Khoảng cách giữa ao và tường bảo vệ tốt nhất để rộng 1 m và trồng cây mướp, bầu bí, cây ăn quả làm bóng mát.- Bờ ao dốc thoải, hay bắc cầu, tạo 1-2 lối cho ba ba dễ lên xuống phơi mình tắm nắng.Bể nuôi:Diện tích: trên 10 (m2).Nước sâu: 0,6 - 1m. Có cống tràn (miệng cống ngăn bằng lưới sắt) để giữ mức nước cố định ở mức cao nhất, có cống tháo ở đáy thuận lợi để bớt công bơm,..
Readmore
Có thể nuôi trong bể xây hay ao đất
Ao nuôi:
Diện tích: 100 - 600 (m2)
Độ sâu: 1 - 1,5m.
Độ trong: 30cm
- Nước sạch, cấp thoát nước chủ động, yên tĩnh, gần nhà để dễ bảo vệ.
Xung quanh ao, hay một phần của ao nên để một phần đất làm vườn trồng cây bóng mát, cây ăn quả có giá trị. Vườn là điều kiện sinh thái rất thích hợp với đời sống của ba ba nuôi trong ao.
Đáy ao có lớp bùn dày 10 - 20cm.
Quanh ao, vườn xây tường cao 0,7- 0,8m, đỉnh tường có gờ ngang rộng 10cm (ở phía lòng ao) để ba ba khỏi bò đi mất.
- Khoảng cách giữa ao và tường bảo vệ tốt nhất để rộng 1 m và trồng cây mướp, bầu bí, cây ăn quả làm bóng mát.
- Bờ ao dốc thoải, hay bắc cầu, tạo 1-2 lối cho ba ba dễ lên xuống phơi mình tắm nắng.
Bể nuôi:
Diện tích: trên 10 (m2).
Nước sâu: 0,6 - 1m. Có cống tràn (miệng cống ngăn bằng lưới sắt) để giữ mức nước cố định ở mức cao nhất, có cống tháo ở đáy thuận lợi để bớt công bơm, tát nước.
Quanh bể cuũg nên để một khoảng đất trồng cây bóng mát, bắt cầu cho ba ba lên xuống, thềm để ngập nước và thả kín bèo tây.
Trường hợp nuôi nhiều ba ba cỡ khác nhau phải làm nhiều ao, hay ngăn ao phân loại lớn bé để nuôi riêng.
Thả giống:
Trước khi thả giống phải tẩy dọn ao, bể cho nước vào và thử nước ao như đối với ao nuôi cá thịt.
Cỡ giống nuôi không dưới 50g/con, tốt nhất là cỡ trên 100g/con. Giống thả nên đồng cỡ, và thả vào tháng 2-3 dương lịch. Thời gian nuôi trong năm tháng 4-11 dương lịch.
Mật độ nuôi:
Cỡ giống 50 - 100g thả 10 -15 con/ (m2).
Cỡ giống 200 g thả 4-7 con/ (m2).
Thả mật độ dày khi ao (bể) có nước lưu thông tốt, dồi dào thức ăn, trường vốn. Nếu mua chủa người bắt tự nhiên cần chọn những con khỏe (khi lật ngửa có thể tự xấp lại ngay), con không bị ốm yếu. Không chọn ba ba câu hay bị đánh điện vì loại này dễ bị thương hay bị liệt dễ chết. Chọn ba ba có ngoại hình hoàn chỉnh, không bi xây xát, chảy máu.
Thức ăn:
Bể, máng đựng thức ăn cho ba ba đặt ổn định.
Bệ được xây bằng gạch lát xi măng, trong ao nên có 2 - 4 bệ máng đựng thức ăn (máng được đóng bằng gỗ có thành cao 5-10cm).
Bệ, máng chìm ngập sâu 20 cm. Có thể dùng mẹt, nia treo ngập nước 20cm.
Thức ăn chủ yếu là động vật (sống hay đã chết) như: giun, ốc, hến, chua, cá, mỡ trâu bò, ruột, sà lách... phế phẩm các lò mổ...
Thức ăn phải vừa cỡ miệng ba ba, cho ăn đều. Có thể chủ động gây thức ăn bằng cách nuôi cách nuôi cá mè, rô phi, ốc vặn v.v...
Chế biến thức ăn tổng hợp từ chất bột, cám bột cá,bột đậu tương sao cho đạm tổng số 40 - 43%.
Chú ý không dùng bột cá mặn hay cá tép đã ướp mặn.
Lượng thức ăn hàng ngày khoảng 5 - 8% trọng lượng ba ba có trong ao.
Trước khi cho ăn phải dọn sạch sàn bệ, maág cho ăn. Điều chỉnh thức ăn theo thời tiết để tránh bị lãng phí ảnh hưởng đến chất nước. Ba ba ăn khỏe, hoạt động mạnh khi nhiệt độ nước từ 22 - 32 oC, trên 35 oC ít ăn hoặc ngừng ăn, dưới 12 oC ngừng ăn.
Ở miền Bắc, trước khi vào mùa đông cho ăn thức ăn giàu dinh dưỡng và có độ béo cao như mỡ trâu, mỡ bò... để nó tích lũy mỡ dùng trong mùa đông. Ao nuôi ba ba với độ thưa có thể kếp hợp nuôi cá mè, trôi, trắm, chép... nuôi ốc trong ao làm thức ăn cho ba ba, sẽ không gây hại với ba ba mà còn tăng hiệu quả kinh ết của ao nuôi.