00:00 Số lượt truy cập: 3237552

Cơ sở chế biến dong riềng “đuối sức” 

Được đăng : 03/11/2016
Ở tỉnh Bắc Cạn, cùng với diện tích trồng dong riềng năm nay tăng đột biến, cũng hình thành nhiều cơ sở chế thành tinh bột dong riềng. Tuy nhiên, các cơ sở này đang gặp khó khó, lao động cực nhọc, nhưng phần lợi nhuận lớn nhất lại không “giữ” được.

Cơ sở chế biến dong riêng phải “bán lúa non”

Mảnh vườn thoai thoải rộng chừng 2.000 m2 của gia đình chị Nguyễn Thị Tuyết ở thôn Chè Cọ, xã Côn Minh( huyện Na Rì) vốn bỏ hoang. Đầu năm 2012 chị Tuyết mua dong riềng về trồng, đất mới, không phải đầu tư phân bón nhiều mà dong riềng vẫn tốt, cây cao gần đến đầu người. Một tuần trở lại đây có những đợt không khí lạnh đầu tiên, cây dong riềng bắt đầu tàn lụi là lúc củ đã tích đủ tinh bột, vào vụ thu hoạch.

Chị Tuyết cắt bỏ phần cây, lộ ra những gốc dong riềng tua tủa củ xanh ngắt trên mặt đất, chỉ cần dùng cuốc lẩy nhẹ là gốc dong riềng bật lên, giũ đất, cân thử ba gốc/ m2 được 16 kg củ, gánh ra suối rửa sạch còn 13 kg, mang bán được 1.700 đồng/ kg. Chủ tịch UBND xã Côn Minh Lộc Văn Thắng vui mừng: “Trên địa bàn xã, bình quân mỗi ha dong riềng cho năng suất 70- 80 tấn củ, năm nay xã tôi trồng được 301 ha, nông dân thu khối tiền”. Xã vùng cao Côn Minh vốn đìu hiu, vào vụ thu hoạch dong riềng, cả xã rộn ràng hẳn lên, các cơ sở thu mua chế biến dong riềng người vào ra bán củ nhộn nhịp.

Côn Minh là xã có bề dày trồng dong riềng từ khoảng 20 năm nay, là nơi cung cấp giống cho cả huyện. Năm nay cả huyện Na Rì trồng 822 ha dong riềng, trong đó Côn Minh chiếm 301 ha. Toàn huyện có 51 cơ sở chế biến dong, trong đó Côn Minh có 43 cơ sở. Do đó, có thể coi Côn Minh là “trung tâm” trồng, chế biến dong riềng của cả huyện Na Rì.

Năm 2009 anh Nguyễn Văn Tài ở thôn Chè Cọ, xã Côn Minh vay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 300 triệu đồng đầu tư dây chuyền chế biến tinh bột dong riềng, bể chứa bột hết hai trăm triệu đồng, còn lại làm vốn lưu động. Anh Tài tâm sự: “Mang dong riềng đến bán cho cơ sở thu mua là nông dân đòi thanh toán tiền ngay, không ai cho nợ. Mỗi ngày tôi thu mua gần mười tấn củ để chế biến tinh bột, cũng có nghĩa là mỗi ngày tôi phải trả cho nông dân 15 triệu đồng tiền mua củ. Chế biến được khoảng một trăm tấn củ, được 20 tấn bột là hết vốn, phải chờ bán tinh bột thì mới có tiền mua củ chế biến tiếp. Giá tinh bột đến gần Tết Nguyên đán lên đến 17- 18 nghìn đồng/ kg, nhưng bây gìơ chỉ được 12 nghìn đồng/ kg mà vẫn phải bán, thiệt lắm, không khác nào phải “bán lúa non”.

Vấn đề mà anh Tài gọi là “bán lúa non” là không có vốn để tích trữ tinh bột nên các cơ sở chế biến dong riềng đang bị thua thiệt lớn. Anh Tài lý giải, năm kg củ thì chế biến được một kg tinh bột. Có nghĩa là, tiền nguyên liệu, tiền điện, tiền thuê nhân công chế biến một kg tinh bột hết khoảng 11 nghìn đồng, bán trong thời điểm này được 12 nghìn đồng/ kg, chỉ lãi một nghìn đồng/ kg, để đến Tết sẽ lãi khoảng năm, bảy nghìn đồng/ kg. Sản xuất ra miến hết hai kg tinh bột, cộng tiền công hết gần 30 nghìn đồng/ kg, bán được 40 nghìn đồng/ kg, lãi hơn mười nghìn đồng/ kg. Nhưng trên địa bàn xã, chỉ có khoảng 20% sản lượng bột được sản xuất thành miến, còn lại hầu hết đều bán bột tinh bột trong thời điểm này để có vốn quay vòng. Như vậy, phần lãi lớn nhất thì các cơ sở chế biến tại xã Côn Minh đều không “giữ” được, vì thiếu vốn.

Đi thăm các cơ sở chế biến dong riềng trên địa bàn xã Côn Minh ngày 8- 11- 2012, Phó Giám đốc phụ trách Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Cạn Nguyễn Đình Đội khẳng định, ngân hàng có đủ vốn để cho vay thu mua, chế biến dong riềng với mức tối đa 200 triệu đồng/ hộ, hợp tác xã vay tối đa 500 triệu đồng không cần tài sản đảm bảo.

Nhưng thực tế, các cơ sở chế biến đang “vướng”. “Năm 2009 anh Nguyễn Văn Tài đã được vay ba trăm triệu đồng, năm 2011 đã trả được một trăm triệu đồng, hiện nay đang còn nợ ngân hàng hai trăm triệu đồng. Bây giờ, anh Tài muốn vay thêm từ ngân hàng, phải có tài sản bảo đảm, đó là quy định của ngân hàng, chúng tôi không thể làm khác được”- ông Đội cho biết.

Hợp tác xã chế biến miến dong Côn Minh có 23 thành viên, mỗi thành viên có một cơ sở chế biến tinh bột dong riềng, mỗi cơ sở chế biến có công suất trên, dưới mười tấn củ dong riềng/ ngày. Chủ nhiệm Nông Văn Chính cho biết, các thành viên trong hợp tác xã đều đang vay ngân hàng tổng vốn 2,3 tỷ đồng. Những cơ sở đang dư nợ ngân hàng, bây giờ muốn vay nữa thì phải có tài sản đảm bảo, nhưng hầu hết các cơ sở đều không có tài sản gì đáng kể nên khó vay tiếp.

Chủ tịch UBND xã Côn Minh Lộc Văn Thắng tâm sự: “Các cơ sở chế biến đều thiếu vốn, nhưng “vướng” cơ chế nên không vay thêm và nhiều được. Làm nghề chế biến dong riềng mà chỉ có trên, dưới hai trăm triệu đồng vốn trở lại thì không ăn thua mấy. Mỗi cơ sở phải ít nhất từ 500 triệu đồng trở lên để tích trữ tinh bột chờ đến khi giá cao bán mới có lãi kha khá”.

“Lực yếu” và thiếu liên kết

Năm nay toàn tỉnh Bắc Cạn trồng được hơn 1.800 ha dong riềng, tăng đột biến so với năm trước. Toàn tỉnh có gần 100 cơ sở chế biến lớn nhỏ, trong đó gần một nửa là mới hình thành trong năm nay. Riêng huyện Na Rì có 51 cơ sở chế biến dong riềng thì một nửa là năm nay làm lần đầu. Tất cả các cơ sở chế biến đều phải đầu tư ít nhất 150 triệu đồng để mua dây chuyền chế biến, xây bể chứa, công trình xử lý môi trường. Một hộ, vài ba hộ hùn nhau làm một cơ sở, làm xong thì hết vốn, phải vay ngân hàng, ai “có gan” thì vay đến 200 triệu đồng, vay nhiều thì không có tài sản thế chấp nên đều đang trong tình trạng thiếu vốn. Do đó, hầu hết phải “bán lúa non”, thời điểm và phần có lãi nhiều là sản xuất thành miến thì không “giữ” được.

Việc mở ra quá nhiều cơ sở chế biến dong riềng, cả tỉnh Bắc Cạn năm nay sẽ thiếu nguyên liệu. Do không “đủ lực” tích trữ bột nên hầu hết cơ sở chế biến đồng loạt liên hệ với các cơ sở làm miến ở Hà Tây( cũ) để bán bột lấy vốn quay vòng. Nguồn cung tăng cao trong cùng một thời gian nên giá tinh bột bị “dìm” xuống thấp, các cơ sở chế biến tinh bột thua thiệt.

Hầu hết các cơ sở chế biến dong riềng trên địa bàn tỉnh đều dùng “công nghệ” thô sơ, đó là dây chuyền tự chế, nghiền củ rồi lọc lấy tinh bột. Nhưng nghiền, lọc không hết nên mất khoảng 3% lượng tinh bột. Mặt khác, không “đủ lực” nên làm công trình bảo vệ môi trường không bảo đảm, đến các cơ sở chế biến thấy bốc lên mùi khum khủm.

Suối Côn Minh trước đây nước trong leo lẻo, nhiều tôm cá, nhưng thời gian qua nhiều cơ sở chế biến dong riềng xả nước bã thải xuống suối, từ xa vẫn có mùi khum khủm, nước nhờ nhờ, tôm cá “biến” mất. Ở Côn Minh, thay vì “bung ra” đến hơn 40 cơ sở, nếu hợp tác lại khoảng 20 cơ sở chế biến thì nguồn lực sẽ được tăng lên gấp bội, sẽ có điều kiện để đầu tư công trình bảo vệ môi trường cho đến nơi đến chốn, có vốn để tích trữ tinh bột đến khi giá tăng cao, chế biến thành miến thì giá trị gia tăng thu được sẽ cao hơn nhiều.

Dong riềng là cây dễ trồng, dễ chăm sóc, phù hợp với tập quán và trình độ của nông dân địa phương là người dân tộc thiểu số. Trồng ở những nơi đất tơi xốp, nhiều mùn, lại có chăm bón, dong riềng cho năng suất đến 130- 150 tấn/ ha, mang lại thu nhập cho nông dân đến 150- 160 triệu đồng/ ha. Nhưng do phát triển tràn lan, thiếu quy hoạch, củ bán được giá nên nhiều nông dân thấy chỗ nào đất trống là trồng dong riềng, trồng cả nơi trũng thấp, thiếu ánh sáng, không chăm bón, trồng quá dầy nên sinh ra sâu bệnh, năng suất kém, nhiều diện tích chỉ đạt 40 tạ/ ha, thậm chí có những diện tích mất trắng.

Kiểm tra việc trồng, thu hoạch, chế biến dong riềng tại Côn Minh, làm việc với lãnh đạo huyện Na Rì, các sở, ngành chức năng của tỉnh ngày 8- 11- 2012, Bí thư Tỉnh uỷ Bắc Cạn Nguyễn Xuân Cường chỉ đạo: Tới đây các địa phương, sở, ngành chức năng phải tổng kết việc trồng, chế biến dong riềng thật là sâu sắc. Tổng kết, đưa ra khuyến cáo nông dân trồng dong riềng thích hợp nhất trên đất nào, mật độ trồng bao nhiêu là vừa, quy trình thâm canh rõ ràng, vào thời điểm nào thu hoạch thì củ tích đủ bột. Trồng phải có chăm sóc, tránh tình trạng quảng canh. Bảo vệ môi trường tại các cơ sở chế biến, phải liên kết lại, tăng cường nguồn lực để không rơi vào tình trạng “bán lúa non” dở khóc dở cười.

Xem ra để việc trồng, chế biến dong riềng trở thành một nghề, sản phẩm có thương hiệu mang lại thu nhập cao cho nhân dân thì nông dân, các cơ sở chế biến, chính quyền địa phương, ngành chức năng ở tỉnh Bắc Cạn còn nhiều việc phải làm trong thời gian tới.