Tuy nhiên việc có quá nhiều cơ sở chế biến chè mi ni cùng hoạt động, gây khó khăn trong quản lý chất lượng chè. Hiện chế tài xử lý đối với các cơ sở này chưa thực rõ ràng, nên cơ quan chức năng rất lúng túng trong giải quyết việc tranh mua, tranh bán tại vùng nguyên liệu chè.
Công ty TNHH MTV Chè Phong Hải (huyện Bảo Thắng) nhiều năm nay đã thực hiện bao tiêu sản phẩm cho người sản xuất theo hợp đồng kinh tế. Hiện công ty có 17 trạm thu mua chè búp tươi, ký hợp đồng thu mua tiêu thụ cho 2.900 hộ nông dân thuộc 13 xã, thị trấn tham gia sản xuất chè trên địa bàn huyện Bảo Thắng. Giá mua được công ty niêm yết và thống nhất trong toàn vùng nguyên liệu với mức bình quân cả năm là 4.800 đồng/kg. Tổng sản lượng chè búp tươi trên địa bàn huyện hàng năm đạt 5.000 tấn, sản lượng chè công ty thu mua là 2.820 tấn, chiếm 56%; số còn lại chủ yếu được 56 cơ sở chế biến chè mi ni thu mua. Theo tổng hợp của công ty, có khoảng 20% số hộ ký hợp đồng với công ty không thực hiện đúng cam kết về bán đủ số lượng, chất lượng chè nguyên liệu.
Huyện Mường Khương có 8 xã với 2.500 hộ và 3.500 lao động trực tiếp sản xuất chè với diện tích trên 1.000 ha. Công ty TNHH MTV Chè Thanh Bình nhiều năm qua luôn gặp những trở ngại trong thu mua nguyên liệu do tư thương gây ra. Hiện công ty có 13 trạm thu mua chè búp tươi, tổ chức thu mua thông qua hợp đồng kinh tế với các hộ, giá thu mua chè bình quân cả năm là 5.000 đồng/kg. Hằng năm, công ty ứng trước phân bón, thuốc bảo vệ thực vật không tính lãi cho nông dân tham gia sản xuất chè. Việc thời điểm gần đây, có một số hộ tự mua máy chế biến về sấy chè tại gia đình khiến nguồn cung nguyên liệu của công ty bị ảnh hưởng. Các lò sấy mi ni có lợi thế hơn là không phải đầu tư vùng nguyên liệu và cũng không chịu trách nhiệm với nông dân như cho vay trả chậm vật tư, nguyên liệu đầu vào. Ông Bùi Đức Rạng, Giám đốc Công ty TNHH MTV Chè Thanh Bình tỏ ra lo ngại với sự gia tăng của các lò sấy mi ni. Ông Rạng cho rằng, cần có cơ chế "cứng rắn" đối với những cơ sở chế biến chè không đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu, sự xuất hiện của các lò sấy chè mi ni đã gây ra nhiều xáo trộn trong thu mua chè nguyên liệu, gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất.
Tuy nhiên nhìn từ khía cạnh khác, chính năng lực chế biến hạn chế, không theo kịp nguồn cung nguyên liệu dồi dào trong một vài thời điểm đã khiến người trồng chè đánh mất niềm tin với các doanh nghiệp chế biến chè. Tại huyện Bảo Thắng, nhiều hộ dân muốn bán chè cho doanh nghiệp nhưng không phải lúc nào doanh nghiệp cũng đồng thuận với người dân, ngược lại còn lấy thế độc quyền để định giá. Năm 2011, giá thu mua chưa thực sự cạnh tranh, công suất chế biến thấp, một vài thời điểm Công ty TNHH MTV Chè Thanh Bình không thu mua hết chè cho nông dân. Tại huyện Bát Xát, trong tổng số 507 ha chè toàn huyện, diện tích do Công ty Linh Dương đầu tư và ký kết hợp đồng với các hộ trồng chè còn hạn chế. Tại khu vực Mường Hum, vùng nguyên liệu tỉnh giao Công ty Linh Dương bao tiêu sản phẩm nông dân cũng đang gặp nhiều khó khăn do việc thu mua nguyên liệu của công ty không liên tục. Năm 2011, Công ty Linh Dương đã "quên" thu mua chè búp khiến 2 vụ chè quá lứa, nông dân không thu hoạch được.
Cạnh tranh thu mua nguyên liệu chè giữa các lò sấy mi ni và các doanh nghiệp lớn tuy chưa phải tranh mua, tranh bán gay gắt nhưng cũng gây ra những xáo trộn nhất định cho các doanh nghiệp đang thực hiện phát triển vùng chè theo quy hoạch của địa phương. Để tháo gỡ khó khăn này, cơ quan quản lý và chính quyền địa phương cần xây dựng cơ chế hợp tác giữa doanh nghiệp và nông dân chặt chẽ hơn./.