Đau mắt dịch: Phòng ngừa và điều trị thế nào?
Được đăng : 03/11/2016
Bệnh viêm kết mạc - giác mạc do andenovirus gây ra, thường lây lan nhanh trong cộng đồng nhất là trong mùa mưa lũ, khi điều kiện vệ sinh không bảo đảm... Tuy nhiên, nếu biết cách phòng tránh chúng ta có thể hạn chế sự lây lan của bệnh.
Đau mắt dịch là thế nào?
Đau mắt dịch tên đầy đủ là viêm kết mạc - giác mạc do adenovirus. Bệnh chiếm từ 5-15% tổng số bệnh nhân đau mắt đỏ nói chung. Cái tên đau mắt dịch cũng đã nói lên phần nào tính chất của căn bệnh này, đó là bệnh thường có xu hướng lây lan gây ra những vụ dịch. Bệnh thường lây lan giữa các cá nhân trong gia đình, cộng đồng nơi sinh sống và nơi công sở.
Nơi xuất phát của bệnh nhiều khi lại là môi trường y tế, nơi giao lưu giữa người bệnh và người lành, giữa bệnh nhân và người làm công tác y tế. Có nhiều người than phiền rằng: “Nhìn thấy một bà đau mắt ở bệnh viện, thế là về nhà bị lây luôn”. Thực ra không dễ dàng như vậy, cho dù đường lây truyền của virut khá phong phú: tiếp xúc trực tiếp qua da như bắt tay, quan hệ tình dục, tiếp xúc với đồ vật đã bị nhiễm mầm bệnh (tay nắm cửa ra vào, dụng cụ sinh hoạt...), dùng chung nguồn nước (đi bơi), hiếm hơn là qua đường không khí.
Thời gian ủ bệnh trung bình khoảng 8 ngày. Điều này giải thích tại sao một gia đình có 3 người, nếu lây nhiễm chéo cho nhau thì có thể kéo dài sau 2 tháng. Khi phân lập virut người ta thấy có chừng vài chục týp virut khác nhau, trong đó những týp phổ biến hơn cả là týp 8, 19 và 37.
Bệnh cảnh lâm sàng của thể bệnh nhẹ
Các cụ thường nói: “Thứ nhất đau mắt, thứ nhì nhức răng”. Ai trong đời đã trải qua một lần đau mắt đỏ đều thấm thía câu nói này. Cái cảm giác: cộm rát như có cát ở trong mắt, dử mắt bám chặt mi buổi sáng, lèm nhèm suốt cả ngày, nặng hơn có thể nhìn mờ và sợ ánh sáng. Cùng với biểu hiện tại mắt là biểu hiện toàn thân của nhiễm virut: mệt nhẹ, sốt, đau họng, nổi hạch tai hoặc hạch dưới hàm. Bệnh thường xảy ra bất thình lình, dữ dằn lúc khởi phát. Lúc đầu thường là một mắt, thường sau 4-5 ngày sẽ lan sang mắt thứ 2. Tuy nhiên, độ khó chịu, mức độ nặng nhẹ giữa hai mắt có thể khác nhau. Đây là một yếu tố khá quan trọng cho việc chẩn đoán chính xác bởi gần như bệnh luôn xảy ra trên hai mắt, cho dù triệu chứng bệnh của mắt thứ 2 có thể thoáng qua. Khi thăm khám thì kết mạc bị phù nề, cương máu đỏ rực và có hột khá điển hình. Hột thường gặp nhiều ở kết mạc mi dưới. Những thể bệnh nặng hơn có thể thấy giả mạc dạng fibrin ở kết mạc cùng đồ phía dưới mà di chứng sau này là cầu dính mi - nhãn cầu. Việc không thể thiếu là kiểm tra hạch trước tai, đây là đáp ứng miễn dịch trước sự tấn công của virut.
Bệnh cảnh lâm sàng của thể bệnh có biến chứng
Về phía người bệnh thường cảm thấy nhìn mờ hơn mọi khi, chói rát khi gặp ánh sáng mạnh, chảy nước mắt liên tục. Điều này báo hiệu bệnh đã lan vào lòng đen - giác mạc.
Giai đoạn tổn hại trong biểu mô giác mạc, tiên phát: Gần như luôn gắn liền với căn bệnh này, có khi chỉ là thoáng qua. Nhưng tựu trung, dạng tổn thương này kéo dài trong khoảng 2 tuần. Đầu tiên chỉ là các chấm bắt màu fluorescéine nhẹ. Về sau có thể các chấm tổn thương này sẽ liên kết với nhau tạo thành những đảo loét biểu mô thực sự, bắt màu fluorescéine mạnh.
Giai đoạn tổn hại dưới biểu mô: Thường biểu hiện sau tuần thứ hai, chiếm tần suất 1/2 trường hợp. Đó là các thẩm lậu dưới biểu mô với số lượng khác nhau, có thể từ vài đám đến vài chục đám. Việc thăm khám dưới kính phóng đại, cắt đèn khe sẽ khẳng định điều này. Tại đỉnh của mỗi đám thẩm lậu có thể quan sát thấy vùng tổn hại biểu mô - bắt màu fluorescéine tương ứng. Các đám thẩm lậu này nếu ở trục nhìn sẽ gây nhìn mờ và những khó chịu khác. Số lượng, mật độ, vị trí của những đám thẩm lậu này biến đổi rất nhanh chóng, trái với bệnh viêm giác mạc Thygesons, các tổn thương thường rất ít biến đổi và rất khu trú. Nghiên cứu về phương diện tổ chức học của những đám thẩm lậu này người ta thấy có các đám kháng thể kháng virut, các lympho và các sợi bào. Phản ứng viêm này bị khu trú giữa lớp biểu mô và lớp màng bowman.
Giai đoạn di chứng: Chỉ chiếm 10% các trường hợp đau mắt dịch. Đó là việc giảm thị lực do các đám thẩm lậu đã nói ở trên quy tụ thành một đám đục trên giác mạc vĩnh viễn hoặc gây loạn thị không đều. Để giải quyết di chứng này phần lớn phải nhờ vào phẫu thuật.
Hiện nay, với kỹ thuật PCR - phản ứng chuỗi men polymerase, việc chẩn đoán viêm kết mạc do virut đã trở nên dễ dàng hơn nhưng ngay cả ở châu Âu thì việc này vẫn bị coi là không cần thiết và xa xỉ. Nhưng đáng buồn là cho đến nay chúng ta vẫn chưa có thuốc đặc trị adenovirus. Tuy vậy cũng rất may, đa phần bệnh nhân sẽ thấy bệnh tự thuyên giảm và khỏi sau khoảng từ 7-10 ngày. Khi bệnh nhân đến với các bác sĩ chuyên khoa mắt thì công việc của bác sĩ chỉ là điều trị triệu chứng. Thường thì các bác sĩ sẽ kê đơn theo cùng một công thức: nước muối sinh lý, hay tốt hơn là nước mắt nhân tạo, có tác dụng xoa dịu những khó chịu trên mắt, dung dịch nhỏ mắt kháng sinh để phòng bội nhiễm, đôi khi là corticoid tra nhỏ tại chỗ. Nước mắt nhân tạo loại có chứa các chế phẩm nhày và bôi trơn thực sự hữu ích nếu bạn có khô mắt kèm theo, hay bề mặt giác mạc bị tổn thương. Chỉ điều trị phẫu thuật cho những trường hợp có di chứng.
Việc sử dụng corticoid phải tuân thủ những quy tắc nghiêm ngặt
- Ở giai đoạn bệnh chỉ khu trú ở kết mạc: Việc dùng corticoid có nguy cơ làm số lượng virut tăng nhanh, làm viêm nhiễm nặng thêm, cũng như tăng nguy cơ lây lan. Hơn nữa, trong giai đoạn đầu của bệnh, các triệu chứng của viêm kết mạc do adenovirus và herpes rất giống nhau. Trong trường hợp thứ hai thì việc dùng corticoid sẽ làm bệnh nặng lên gấp bội.
- Ở giai đoạn tổn hại trong biểu mô: Một lần nữa được nhắc lại, việc dùng corticoid cũng sẽ làm bệnh nặng thêm và tăng nguy cơ lây bệnh sang người lành. Việc chỉ định dùng thuốc kháng virut để đề phòng thẩm lậu dưới biểu mô còn đang được tranh cãi. Người ta cân nhắc cái giá phải trả giữa việc dùng thuốc kháng virut để phòng đốm thẩm lậu dưới biểu mô với độc tính của nó trên biểu mô giác mạc.
- Ở giai đoạn tổn thương dưới biểu mô: Cần nói ngay là dùng corticoid trong giai đoạn này làm lui giảm thẩm lậu dưới biểu mô nhanh chóng. Chính vì vậy ngày càng nhiều bác sĩ mắt phải cầu cứu đến nó nếu bệnh nhân đến trong giai đoạn này. Vấn đề phải lưu ý là cơ chế tác dụng của corticoid luôn có những mặt tiêu cực của nó. Đó là nguy cơ phụ thuộc vào thuốc, ngăn chặn quá trình làm sẹo của các đốm dưới biểu mô cũng như độ ổn định của sẹo. Việc dùng corticoid liều rất thấp sẽ rất hữu ích nếu có những đốm thẩm lậu dưới biểu mô ở trung tâm giác mạc, xu hướng liên kết với nhau, làm giảm thị lực đáng kể. Không nên dừng thuốc đột ngột, mà nên giảm liều trong vài tuần, có thể phải phối hợp với cyclosporine nhỏ mắt và theo dõi thường xuyên về sau.
- Ở giai đoạn di chứng: Không có chống chỉ định cho nhóm corticoid.
Điều trị phẫu thuật chỉ khi các di chứng là vĩnh viễn. Thường sẽ cân nhắc khả năng phải phẫu thuật trong 2 tình huống sau: Giảm thị lực do giác mạc bị mờ đục; giảm thị lực do loạn thị không đều, thường do các nốt dưới biểu mô đã sẹo hóa gây nên.
Trong cả hai trường hợp sẽ quyết định can thiệp nếu thị lực sau hiệu chỉnh bằng kính tiếp xúc cứng vẫn < 3/10. Có hai phương pháp có thể áp dụng là dùng laser can thiệp hoặc ghép giác mạc lớp.
Phòng bệnh như thế nào?
Viêm kết mạc do virut là bệnh rất dễ lây lan cho dù chúng ta đã tìm đủ biện pháp phòng ngừa: Đeo kính, rửa tay, đeo khẩu trang. Vì sao vậy? Adenovirus thuộc nhóm virut chứa AND không có vỏ bọc. Điều này làm chúng đề kháng cực tốt ở môi trường ngoài tế bào, nhất là trên các vật dụng bằng nhựa và kim loại: tay nắm cửa, dụng cụ khám bệnh, bàn ghế... Hơn nữa, chúng không hề bị tổn hại gì trước cồn và ê-te. Nếu bệnh nhân bị nhiễm bệnh từ các vật dụng xung quanh thì bệnh sẽ khởi phát sau vài ngày đến 3 tuần. Do vậy bệnh nhân cần được cách ly khỏi trường học, cơ quan ít nhất là 7 ngày sau khi bệnh khởi phát. Tuy nhiên khả năng lây nhiễm sang người lành vẫn còn kéo dài đến tuần thứ 3. Mọi người trong gia đình nên kiêng đụng chạm trực tiếp lên da người bệnh, rửa tay thường xuyên, không dùng chung khăn mặt và kiêng quan hệ tình dục. Trong môi trường bệnh viện, các nhân viên y tế nên kiêng bắt tay bệnh nhân, nên dùng găng tay khi khám bệnh và các hộp dụng cụ riêng rẽ. Lý tưởng nhất là không để bệnh nhân sử dụng tay nắm cửa, rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước sau mỗi lần khám bệnh, sát khuẩn tất cả những vật dụng trong phòng khám có bề mặt gồ ghề, dùng các loại thuốc nhỏ một lần và hạn chế các thủ thuật. Ngay cả khi tất cả những công việc phòng bệnh ngặt nghèo vừa nêu trên được thực hiện nghiêm chỉnh thì việc mắc bệnh đau mắt dịch vẫn có thể xảy ra ở bất cứ ai, tuy nhiên sẽ hạn chế hơn.
BS. Hoàng Cương (BV Mắt Trung ương)