Đi hết chặng đường của năm đầu triển khai Chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM), các xã trên địa bàn Quảng Ninh cũng đã thu được kết quả bước đầu từ sự thay đổi về tư duy nhận thức đến các bước phát triển trong sản xuất; hoàn thiện về kết cấu hạ tầng, tạo diện mạo mới cho các vùng quê. Cùng với cái được thì những bất cập, hạn chế cũng đã bộc lộ rất rõ ràng để cùng có sự nhìn nhận từ đó có giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
Với tinh thần vào cuộc tập trung, quyết liệt nên đến nay những mục tiêu đề ra cho năm 2011 đã được các địa phương cơ bản hoàn thành, 125 xã đã lập xong, tổ chức thẩm định đề án, đồ án quy hoạch cấp xã. Các huyện Tiên Yên, Ba Chẽ, TX Quảng Yên đã hoàn thành đề án cấp huyện, tất cả các địa phương đã lập xong kế hoạch triển khai chương trình. Từ đó đã xác định được chính xác đến năm 2015 toàn tỉnh có 10/13 huyện cơ bản đạt tiêu chí huyện NTM, 82 xã cơ bản đạt tiêu chí xã NTM. Hiện nay các địa phương đang khẩn trương đầu tư hoàn thành 53 trường học các loại, xây dựng hoàn thành 322 nhà văn hoá thôn (làng, bản), xây dựng 21 công trình cấp nước tập trung và hàng trăm công trình nhỏ lẻ về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, 43 công trình thuỷ lợi, 5 công trình xây dựng hạ tầng vùng sản xuất tập trung, đầu tư 50 công trình giao thông nông thôn với khối lượng thực hiện được khoảng 55km. Đặc biệt việc đầu tư hệ thống lưới điện nông thôn đã được tập trung chỉ đạo triển khai cao độ, đến nay Công ty Điện lực Quảng Ninh hoàn thành công tác ký kết hợp đồng xây lắp với các đơn vị trúng thầu, đã khởi công đồng loạt các công trình thuộc giai đoạn I gồm: Công trình điện nông thôn các xã Hoành Mô, Đồng Văn, Tình Húc, Đồng Tâm (Bình Liêu); các bản: Lý Van, bản Máy Nháu, bản Cấu Phùng, Tài Chi (xã Quảng Sơn - Hải Hà); xã Bắc Sơn, phường Hải Hoà (TP Móng Cái). Và đã thực hiện xong công tác lựa chọn nhà thầu tư vấn thiết kế xây dựng công trình điện của giai đoạn II. Đầu tư cho phát triển sản xuất đã được chú trọng hơn với trên 60 mô hình giảm nghèo, 13 dự án áp dụng cây, con, giống mới đang triển khai, được bà con nông dân tin tưởng và có nguyện vọng nhân rộng ra sản xuất đại trà trong thời gian tới như: Nuôi lợn rừng sinh sản ở TX Cẩm Phả, huyện Vân Đồn; nuôi cá rô đồng, cá rô đầu vuông ở các huyện Bình Liêu, Ba Chẽ, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà; trồng cây sa mộc, cây ba kích ở Ba Chẽ, Hoành Bồ; nuôi cá rô phi tập trung ở Đông Triều, Quảng Yên.
![]() |
Đầu ra cho sản phẩm vẫn là mối lo với người nuôi hàu ở xã Bản Sen (Vân Đồn). |
Cái được lớn nhất mà chương trình thu được sau 1 năm triển khai thực hiện đó là nhận thức của người dân về xây dựng NTM đã có sự thay đổi thể hiện trên kết quả nhiều hộ dân tham gia đóng góp, hiến đất làm các công trình hạ tầng kỹ thuật như huyện Đông Triều nhân dân đóng góp 69.710m2 đất xây dựng nhà văn hoá thôn, huyện Hải Hà có 211 hộ hiến 28.921m2 đất để làm đường, huyện Tiên Yên hiến 40.000m2 đất để làm các công trình hạ tầng NTM. Hàng trăm doanh nghiệp đã tham gia hỗ trợ chương trình bằng các sản phẩm của mình hoặc cam kết đào tạo, sử dụng lao động trên địa bàn với tổng số kinh phí tương đương 6 tỷ đồng.
Hạn chế cũng đã lộ
Động lực chính của chương trình chính là thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao nhưng sau 1 năm triển khai thấy rằng các hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất còn chậm |
Xây dựng NTM được xác định là cuộc vận động lớn trong đó người nông dân đóng vai trò là chủ thể chính tuy nhiên do nhận thức về chương trình còn chưa đầy đủ, từ người nông dân đến lãnh đạo ở một số địa phương vẫn còn coi đây là chương trình của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn nên nặng tư tưởng trông chờ ỷ lại các dự án đầu tư từ Nhà nước, chưa huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai chương trình. Trong thực hiện lập đề án, đồ án quy hoạch số liệu khảo sát thực trạng NTM ở một số xã chưa sát với thực tế, có biểu hiện tâm lý chủ quan của các địa phương (một số tiêu chí đầu tư hạ tầng thấp hơn nhiều so với đánh giá tháng 8-2010 nhằm đưa vào kế hoạch đầu tư thuộc chương trình). Các giải pháp triển khai đề án còn thiếu, đặc biệt giải pháp nhằm thực hiện các tiêu chí vệ sinh môi trường nông thôn, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất… Cơ cấu xác định nguồn lực cho chương trình mất cân đối do chưa hiểu hết chương trình nên chỉ thống kê kinh phí từ các tiêu chí đầu tư hạ tầng nên chủ yếu là nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách (90%), chưa quan tâm đến nguồn đóng góp của nhân dân (công sức và tiền của), nguồn huy động từ cộng đồng doanh nghiệp và các nguồn vốn tín dụng. Chất lượng Quy hoạch có nơi không cao, phiến diện chỉ quan tâm đến quy hoạch xây dựng, chưa quan tâm đến quy hoạch sản xuất, các giải pháp thực hiện và quản lý quy hoạch chưa đồng bộ, có quy hoạch thiếu tính khả thi.
Để tạo động lực cho triển khai thực hiện, tỉnh đã quyết định dành trên 1.500 tỷ đồng để đầu tư thực hiện các công trình hạ tầng thuộc chương trình NTM nhưng các công trình đầu tư vào địa bàn xã cơ bản vẫn do UBND các huyện làm chủ đầu tư nên khả năng huy động sức mạnh của cộng đồng còn hạn chế. Chưa phát động được các phong trào người dân tự giác, tự nguyện tham gia xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ cho đời sống của địa phương, dẫn đến tư tưởng ỷ lại, trông chờ, thờ ơ với trách nhiệm đóng góp xây dựng quê hương, coi đây là công trình đầu tư bao cấp của Nhà nước.
Động lực chính của chương trình chính là thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao nhưng sau 1 năm triển khai thấy rằng các hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất còn chậm, nhiều huyện, xã chưa định vị được các sản phẩm nông nghiệp để quy hoạch, lúng túng trong khâu lập dự án và xây dựng thương hiệu sản phẩm, tổ chức khâu sản xuất và tiếp thị, quảng bá, giới thiệu tiêu thụ sản phẩm. Dù tỉnh đã giao cho các sở, chuyên ngành xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung 14 chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ phát triển sản xuất khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh nhưng hiện tại lại thiếu cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, liên kết 4 nhà (Nhà nông, nhà khoa học, nhà quản lý, nhà đầu tư). Vì vậy, thu hút đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, chế biến, dịch vụ... ở khu vực nông thôn còn hạn chế, đây cũng là khó khăn trong thực hiện tiêu chí chuyển dịch cơ cấu lao động và nâng cao thu nhập.
Những hạn chế bất cập này đang rất cần các địa phương nhìn nhận lại để có giải pháp khắc phục trong năm tới.