Vị trí
- Nơi xây dựng ao nuôi là đất thịt không bị nhiễm phèn, có khả năng sử dụng được nguồn nước giếng.
- Gần kênh rạch để tiện cấp nước.
- Không nên xây dựng gần những tán cây lớn sẽ làm mặt ao thiếu ánh sáng, khả năng tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho cá như động - thực vật phù du, động vật đáy... sẽ hạn chế.
- Nên làm gần nhà để tiện chăm sóc và bảo vệ.
Xây dựng chuồng và ao
Chuồng vịt có thể làm bằng tre, nền đất phủ rơm rạ hoặc lót xi măng, có cửa và sân thông với ao nuôi.
Giai đoạn đầu, vịt nhỏ cần được bảo vệ cũng như hạn chế khả năng khuấy động làm tăng độ đục môi trường nước, ao nuôi cần ngăn 1/3 diện tích bằng lưới hoặc nạp tre để giới hạn sự di chuyển của vịt.
Kỹ thuật nuôi
Số lượng cá thả nuôi tùy thuộc vào số vịt và diện tích mặt nước. Bình quân nuôi 8.000 con vịt S/ha sẽ cung cấp đủ phân làm thức ăn trực tiếp và gián tiếp cho cá rô phi với mật độ 1-1,5 con/m2.
Do hàm lượng dinh dưỡng trong chất thải của vịt thấp và đặc biệt là khả năng làm thức ăn trực tiếp cho các loài cá nuôi bị hạn chế nên bà con cần chọn những loài cá nuôi có tính ăn lọc. Ví dụD, cá rô phi 80%, cá chép 10%; các loài cá khác như tra, trôi 10%.
Mật độ cá thả nuôi: 2 con/m2; bổ sung lượng thức ăn từ phụ phẩm nông nghiệp như cám, tấm, bã đậu, bèo, tép, ốc, cá tạp..., khẩu phần bằng 3-5% trọng lượng cá. Lượng thức ăn này sẽ được điều chỉnh qua mỗi tháng nuôi sau khi kiểm tra sức tăng trọng của cá.
Chăm sóc và quản lý
ao nuôi
Hàng ngày, cần theo dõi tình trạng sức khỏe cá nuôi, đặc biệt vào sáng sớm khi điều kiện ôxy trong ao giảm. Nếu cá bị nổi đầu, cần có biện pháp cấp nước để cải thiện hàm lượng ôxy trong ao nuôi.
Thu hoạch
Sau 10-11 tháng nuôi, cá đạt kích cỡ thương phẩm, tiến hành thu hoạch. Tuy nhiên, có thể thu tỉa thả bù sau khi mô hình thực hiện được ít nhất 6 tháng. Số lượng cá thả bù phải phù hợp với số lượng cá đã thu hoạch, như thế hiệu quả của mô hình nuôi mới được đảm bảo.