Khó khăn của cà phê Việt Nam
Rõ ràng, với những lợi thế riêng về thổ nhưỡng, khí hậu, cà phê được xem là một trong những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam. Tuy nhiên, trước những khó khăn, thách thức từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động sản xuất, kinh doanh cà phê gặp nhiều khó khăn khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn hạn chế, công nghệ lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ, thiếu vốn, hạ tầng sản xuất yếu kém...
Hiệp hội cà phê Việt Nam cũng chỉ rõ, mặc dù được đánh giá khá tốt về mặt chất lượng song chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam lẫn nhiều tạp chất, thiếu ổn định do khâu sơ chế yếu. Ngành cà phê hiện nay cũng đang phải đối mặt với những vấn đề như: thông tin không đầy đủ, chất lượng thông tin kém, không hiệu quả; thiếu vốn để quản lý, nghiên cứu phát triển, dịch vụ tín dụng vẫn đang bị bó hẹp; tiếp thị và quảng bá sản phẩm kém, chưa tạo được ấn tượng đối với khách hàng; thiếu sự tham gia của những tác nhân trong việc hoạch định và triển khai chính sách, giá trị gia tăng của sản phẩm cuối cùng thấp do thiếu kỹ thuật trong khâu chế biến sản phẩm; thiếu sự kết nối giữa các cấp quản lý, lãnh đạo với nông dân, người buôn bán nhỏ, các công ty kinh doanh và người tiêu dùng trong quá trình xây dựng, triển khai và đánh giá chính sách; nghiên cứu chính sách, nghiên cứu kỹ thuật và hoạt động khuyến nông, chuyển giao công nghệ chưa gắn kết và chưa theo định hướng thị trường...
Bên cạnh đó, việc xây dựng thương hiệu của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê còn rất hạn chế, thậm chí là yếu nên khi ký kết hợp đồng, các doanh nghiệp sản xuất, chế biến cà phê thường gặp phải những khó khăn trở ngại về luật pháp quốc tế và chưa có điều kiện để kiểm tra độ tin cậy đối với các đối tác nước ngoài.
Tìm hướng đi phát triển bền vững
Trên cơ sở quy hoạch để phát triển cà phê bền vững, Nhà nước cần triển khai đồng bộ việc xây dựng, quảng bá và khai thác một cách có hiệu quả thương hiệu cà phê quốc gia Việt Nam, xây dựng và quản lý điều hành sàn giao dịch cà phê tại Việt Nam kết nối với sàn giao dịch cà phê thế giới hoạt động có hiệu quả. Tiến hành nghiên cứu và xây dựng quỹ cũng như kho dự trữ cà phê quốc gia có sức chứa khoảng 15 – 20% sản lượng cà phê mỗi niên vụ góp phần tham gia điều tiết cung cầu cà phê xuất khẩu ra thị trường thế giới nhằm bình ổn giá cà phê luôn ở mức trên 2.000 USD/tấn.
Nhà nước cần hoạch định chiến lược phát triển ngành hàng nông, lâm sản nói chung và cà phê nói riêng với những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và các chính sách cần thiết để thực hiện chiến lược đó. Tiếp tục thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, phạm vi ngành, vùng và địa phương. Trong đó cần đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án cụ thể để phát triển ngành hàng nông, lâm sản. Đồng thời tiến hành rà soát, điều chỉnh các chính sách hỗ trợ ngành nông, lâm nghiệp theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, tăng các biện pháp hỗ trợ mà Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) đã quy định. Tạo điều kiện thuận lợi để nông dân và doanh nghiệp có thể phản ứng nhanh nhạy, có hiệu quả trước sự thay đổi của thị trường.
Cà phê Việt Nam chủ yếu dành cho xuất khẩu (trên 90%), là một trong những mặt hàng nông, lâm sản xuất khẩu chủ lực của nước ta (cùng với gạo, hạt tiêu, thủy sản, cao su, điều, gỗ) và đã gia nhập “câu lạc bộ 1 tỉ USD”. Thực tế, từ nhiều năm nay, Việt Nam luôn là một trong những quốc gia có sản lượng cà phê xuất khẩu hàng đầu thế giới. Điều này có được là do chất lượng cà phê của Việt Nam được thị trường thế giới đánh giá tốt, giá thành hợp lý… |
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có những giải pháp trực tiếp hỗ trợ doanh nghiệp trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông, lâm sản nâng cao sức cạnh tranh. Trong đó, nâng cao năng lực quản trị điều hành doanh nghiệp, đáp ứng đòi hỏi của cơ chế thị trường, giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng gia nhập thị trường thông qua tham gia các chuỗi giá trị sản phẩm nông, lâm nghiệp là ưu tiên hàng đầu để xây dựng thương hiệu cà phê Việt trên thị trường thế giới. Triển khai các biện pháp nghiên cứu khoa học công nghệ, phát triển sản phẩm mới, khắc phục tình trạng chất lượng sản phẩm thấp, không đồng đều và giá thành cao, khiến cho doanh nghiệp gặp khó cạnh tranh trong tiêu thụ. Hỗ trợ doanh nghiệp liên kết, liên doanh để tạo nên sức mạnh cộng đồng, khắc phục tình trạng tranh mua tranh bán trên thị trường và sự yếu kém về quy mô nhỏ bé của mình.
Ngoài ra, Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích đầu tư phát triển doanh nghiệp trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông – lâm sản; Các chính sách thuế (kể cả các ưu đãi, miễn giảm) cần được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện theo nguyên tắc công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính về thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, vừa nâng cao ý thức trách nhiệm, vừa tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp (DN); Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, hệ thống thông tin nhằm hỗ trợ DN sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông, lâm sản; Thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với các ngành hàng nông, lâm sản…
Đồng bộ sản xuất và thu mua
Để có được sự phát triển bền vững cho ngành cà phê, chúng ta cần có những bước đi chiến lược và cụ thể từ định hướng, đặc biệt là kết cấu tổ chức chặt chẽ chuỗi giá trị ngành hàng.
Đảm bảo cho cà phê đạt sản lượng và củng cố chất lượng, tăng thêm độ tin dùng của khách hàng trong và ngoài nước, về sản xuất, cần giữ ổn định và áp dụng kỹ thuật thâm canh cà phê ở những nơi có điều kiện sinh thái thích nghi; ghép, cải tạo hoặc tái canh bằng các giống cà phê mới, đồng thời thực hiện canh tác đúng quy trình thâm canh, tăng năng suất và chất lượng cà phê xuất khẩu; tiến hành thu hoạch cà phê đúng độ chín và áp dụng phương thức chế biến ướt vào chế biến cà phê xuất khẩu; trang bị dây chuyền thiết bị công nghệ tiên tiến để đa dạng hoá sản phẩm cà phê đạt chất lượng cao, đồng thời tăng tỷ lệ cà phê qua chế biến lên 4% - 5% sản lượng; tổ chức quản lý, điều hành sản xuất – kinh doanh theo các tiêu chuẩn quốc tế như ISO, HACCP…và cần chú ý đến phân khúc thị trường sản phẩm cà phê.
Đến nay, cả nước có nửa triệu héc-ta cà-phê, sản xuất hàng năm khoảng 1 triệu tấn, chủ yếu là cà-phê vối (Robusta) ở Tây Nguyên và cà-phê chè (Arabica) ở phía Bắc Tây Bắc. Ngành cà-phê nước ta đã có những bước phát triển nhanh vượt bậc. Chỉ trong vòng 15 - 20 năm trở lại đây chúng ta đã đưa sản lượng cà-phê cả nước tăng lên hàng trăm lần. |
Đối với việc thu mua cà phê, chỉ mua cà phê đạt tiêu chuẩn chất lượng với mức giá phù hợp; phương thức thu mua và thanh toán minh bạch, chính xác và tiện lợi; tạo mối liên kết giữa người sản xuất cà phê và doanh nghiệp xuất khẩu cà phê một cách liên thông.
Đáng chú ý, các doanh nghiệp thu mua và sơ chế cà phê nhân xuất khẩu, cần đầu tư thêm thiết bị chế biến cà phê đạt chất lượng cao; xây dựng nhãn mác hàng hoá và chủ động mở rộng thị trường, nhất là chủ động tham gia giao dịch tại sàn giao dịch cà phê; quản lý sản xuất kinh doanh theo hướng kết nối sản xuất với thị trường tiêu thụ cà phê bằng công nghệ tiên tiến; liên kết với hệ thống ngân hàng tài trợ cho hoạt động thu mua, chế biến xuất khẩu cà phê.
Cần phải chủ động trong dự báo sự thay đổi nhu cầu của thị trường, từ đó có kế hoạch sản xuất và cung cấp những mặt hàng mà thị trường đang cần. Mở rộng mặt hàng, chủng loại mặt hàng, trồng đan xen và xóa bỏ tình trạng độc canh cà phê vối (Robusta), như hiện nay.
Cũng cần phải đẩy mạnh xây dựng những kênh thông tin hữu hiệu nhằm kết nối thông tin hai chiều từ các cấp lãnh đạo tới những người sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Cung cấp, phổ biến thông tin thị trường, cải tiến thể chế, tổ chức ngành hàng, mục tiêu sản xuất, các chiến lược xúc tiến thương mại, dự báo mùa vụ, thiết lập quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước và tư nhân. Cần có sự tham gia của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tạo ra được sự điều phối thống nhất để phát triển ngành cà phê.
Theo gợi ý của một số chuyên gia, Việt Nam nên thành lập cơ quan chuyên trách điều phối ngành hàng cà phê nhằm đề xuất và hoạch định chính sách chiến lược ngành, gồm cả chính sách dự trữ; cung cấp và phổ biến thông tin thị trường; cải tiến thể chế tổ chức ngành hàng. Đặc biệt lưu ý là chiến lược xúc tiến thương mại. Thông qua dự án nghiên cứu nông nghiệp, marketing và dự báo mùa vụ. Thông qua giải pháp cân đối cung cầu cho xuất khẩu và tiêu thụ trong nước... Đồng thời xây dựng, liên kết những hiệp hội như: hiệp hội sản xuất, hiệp hội những người buôn bán nhỏ, hiệp hội các công ty kinh doanh và hiệp hội người tiêu dùng với vai trò góp phần tạo ra kênh phân phối hợp lý, tiếp cận và phản hồi thông tin và phản ứng thị trường một cách nhanh chóng và chính xác. Thêm vào đó, cần đẩy mạnh sự tham gia của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Trung tâm Khuyến nông quốc gia, để tạo sự điều phối tập trung và thống nhất hơn, tốt hơn nhiệm vụ đề xuất các chính sách, chiến lược về ngành hàng cà phê phù hợp với tình hình thực tế hơn nữa.
Cũng theo các chuyên gia, nên xây dựng Quỹ cà phê để hỗ trợ ngành hàng, hỗ trợ những việc cụ thể: chi phí sản xuất (đầu vào, lao động, chi phí máy móc), chi phí thu hoạch, hỗ trợ tạm trữ cho người sản xuất và hợp tác xã (HTX) với mức hỗ trợ bằng 50% công suất chế biến của mỗi HTX. Có thể hỗ trợ mua cà phê với mức hỗ trợ là 50% công suất chế biến; hỗ trợ quảng cáo; hỗ trợ nghiên cứu phát triển ngành cà-phê. ...